Nhà văn Khuất Quang Thụy những quầng sáng trong lam lũ, nhọc nhằn

Baovannghe.vn - Nhà văn Khuất Quang Thụy đã rời cõi tạm về miền cao xanh mây trắng. Cõi tạm này ông đã từng sống sung sướng, sum vầy, hạnh phúc; dù có lúc lam lũ, nhọc nhằn, vụng dại...

Một đời nhà văn Khuất Quang Thụy sống nhọc nhằn với những khúc quanh định mệnh. Thời chiến tranh nhiều phen đói khát, sốt rét tóc rụng trọc đầu, chiến đấu can trường được thăng đến chức tiểu đội trưởng trinh sát, rồi làm thơ, viết văn, viết báo, sáng tác chèo, tấu hài, được gọi lên làm tờ tin sư đoàn, mấy lần suýt chết. Thời bao cấp đói nghèo lam lũ, ông chẳng nề hà viết báo, làm thơ, sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết, viết sử sư đoàn, sử cơ quan, doanh nghiệp, lúc được trả nhuận bút bằng tiền, khi được trả bằng xe lambro 550 gạo, bằng ô tô tải củi gộc. Đoạn cuối đời, dù 74 tuổi vẫn không nghỉ ngơi, ông cần mẫn lo việc nhà, việc báo, việc hội…, lúc nào cũng tất bật, sấp ngửa. Có lần tôi nói đùa trêu ông: “Bác cứ bảo bác tuổi Dần. Nhưng sinh ngày 12 tháng 1 năm 1950, thì là tuổi Sửu (năm 1949 âm lịch) chứ. Hổ thì gầm gừ, nanh vuốt dữ dằn. Trâu thì hiền lành, đủng đỉnh. Ứng nghiệm ra bác như con trâu già cổ cày vai bừa cần mẫn kéo những đường cày định mệnh cuối vụ.” Ông cười hiền, bảo: “Nhưng chú có thấy anh ngưng viết lúc nào không?” Không! Dù nhọc nhằn, lo toan, tất bật, sấp ngửa, ông vẫn viết. Ông viết..., viết..., viết không biết mệt. Cơ thể ông săn chắc như cây lim cây táu, lực lưỡng như ông thợ thùng đào thùng đấu bốn mùa mưu sinh. Ông lại có một đời văn hanh thông, bừng sáng, bay xa bởi sức viết vạm vỡ như một ông thợ cày mải miết lật những đường cày định mệnh gặt mùa vàng trên các cánh đồng chữ nghĩa.

*

Nhà văn Khuất Quang Thụy những quầng sáng trong lam lũ, nhọc nhằn
Nhà văn Khuất Quang Thụy (1950 -2025)

Chưa học hết phổ thông trung học, 17 tuổi, Khuất Quang Thụy viết đơn bằng máu tình nguyện nhập ngũ. Trải qua mấy tháng huấn luyện, năm 1968 ông vào chiến trường chiến đấu trong đội hình Sư đoàn 320 chủ lực. Đời chiến binh mịt mù khói lửa, qua các chiến trường Quảng Trị, Nam Lào rồi Tây Nguyên, từ anh lính binh nhì đến tiểu đội trưởng trinh sát, ông vừa cầm súng vừa cầm bút làm thơ viết văn trở thành nhà văn chiến sĩ.

Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào kết thúc, đơn vị ra Quảng Bình an dưỡng và củng cố, Khuất Quang Thụy được điều về làm tờ tin của Sư đoàn. Các nhà văn nhà thơ Hồ Khải Đại, Vũ Sắc, Xuân Thiêm, Cao Tiến Lê vào mở lớp sáng tác kỉ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, nhà văn Nguyễn Minh Châu đang đi thâm nhập thực tế viết Dấu chân người lính cũng đến nói chuyện. Khuất Quang Thụy may mắn được tham dự trại viết này, chưa đầy một tuần ông nộp ký sự Lửa và thép trong nỗi hồi hộp, nôn nao chưa đủ tự tin để biết nó hay dở thế nào. Nhà văn Cao Tiến Lê đọc bản thảo rất hài lòng, gọi ông, bảo: “Cậu viết ký sự đầy không khí lính tráng, trận mạc, chi tiết độc đáo và văn hoạt mà chỉ làm thơ thì hao phí tài năng quá. Viết văn xuôi đi cậu sẽ thành công.” Tháng 11 năm 1971, Tạp chí Văn nghệ Quân đội in ký sự Lửa và thép của Khuất Quang Thụy. Không bao lâu, vào một buổi tối đang loay hoay chuẩn bị bài cho tờ tin số mới, cậu liên lạc chạy huỳnh huỵch đến bảo ông lên ngay gặp Chính ủy Nguyễn Hùng Phong. Giật thót mình. Có chuyện gì mà Chính ủy Sư đoàn gọi anh hạ sỹ? Hóa ra, ông Chính ủy Sư đoàn cho gọi Khuất Quang Thụy đến nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đang đọc ký sự Lửa và thép. Nghe xong, ông Chính ủy Sư đoàn vỗ vai Khuất Quang Thụy, thân mật bảo: “Cứ thế mà viết. Cậu phải trở thành nhà văn quân đội, nhưng trước mắt là nhà văn sư đoàn đã.” Sau này, hình ảnh Chính ủy Nguyễn Hùng Phong xuất hiện đi xuất hiện lại trong mấy cuốn tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy với cái tên “Tướng Hùng Phong”, chứ lúc ấy ông xốn xao xúc động, lòng đầy biết ơn vị chính ủy nhìn xa trông rộng, ông càng có niềm tin vừa cầm súng vừa viết. Từ hôm đó, ông trở thành nhà thơ của sư đoàn, nhà văn của sư đoàn.

Làm nhà văn sư đoàn lại giữ tờ tin sư đoàn thì phải lo bài vở, lo phát triển cộng tác viên. Một lần nghe tin có đợt quân bổ sung toàn lính sinh viên, ông vội vàng hộc tốc đến hỏi xem có ai có năng khiếu viết báo, làm thơ không. Mấy anh lính nhao nhao chỉ vào anh lính Nguyễn Trọng Luân, bảo: “Cái thằng gầy gò đen đúa kia kìa. Nó thuộc nhiều thơ lắm.” Khuất Quang Thụy đến, niềm nở bắt tay bảo: “Cậu thuộc nhiều thơ thì thử đọc cho tớ nghe một bài xem nào!” Nguyễn Trọng Luân bèn đọc luôn bài thơ Tấm gương soi: Bên buồng lái em có tấm gương soi/ Ai làm ra xe mà chu đáo quá/ Khi em cười ửng hồng đôi má/ Cô lái xe trong đó cũng cười theo/ Có những đêm trời trong veo veo/ Xe chạy sao nghiêng vào buồng lái/ Sao sà xuống em cầm tay lái. Hay là sao… soi gương? Khuất Quang Thụy vừa nghe vừa tủm tỉm cười, hỏi: “Cậu đọc được bài thơ này ở đâu, có biết của tác giả nào không?” Anh lính trẻ sinh viên Trường Đại học Cơ điện bảo: “Em nghe trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Của tác giả Khuất Quang Thụy đấy, chả biết là thằng cha ấy ở đâu mà nó viết trẻ trung, tinh nghịch và hồn nhiên phết?” Không ngờ có lính trẻ sinh viên thuộc vanh vách thơ mình đến thế, Khuất Quang Thụy bật cười bảo: “Là tớ đây.” Từ đó, hai ông quen thân nhau. Nguyễn Trọng Luân khoe là bạn thân quen với nhà thơ Khuất Quang Thụy, ông Chính trị viên nghe được gọi lên chỉnh đốn: “Cái thân cậu lính lác đen hôi mà được làm bạn với nhà thơ Khuất Quang Thụy à. Tôi cấm cậu không được lợi dụng danh tiếng nhà thơ mặt trận để ra oai.” Nguyễn Trọng Luân không có cách gì để thanh minh, vì anh lính binh nhì mà làm bạn thân thiết với nhà thơ đang lừng lẫy Mặt trận B3 thì trời sa xuống đất. Quả thật, dạo ấy Khuất Quang Thụy đã nổi tiếng chiến trường Tây Nguyên. Ở cánh Bắc mặt trận lính tráng đọc thơ Những con đường, Tấm gương soi, Bài ca ống cóng… của Khuất Quang Thụy, ở cánh Nam lính ta diễn chèo, tấu hài, kịch nói của Khuất Quang Thụy. Hội diễn văn nghệ mặt trận, Khuất Quang Thụy sáng tác, dàn dựng được 4 giải nhất: ngâm thơ, kịch nói, hoạt cảnh chèo, tấu hài… Tặng thưởng trị giá nhất là cái đồng hồ Seiko Nhật chính hãng. Hỏi mấy ai được như anh lính vừa cầm súng vừa cầm bút nơi chiến trường ác liệt, hy sinh gian khổ, nhiều phen đói khát?

Khuất Quang Thụy nổi tiếng ở Mặt trận Tây Nguyên đến mức nhà văn Trung Trung Đỉnh phải đi độ 20 cây số đường rừng để gặp ông, nhưng không gặp được lại đi bộ 20 cây số trở về. Dạo đó, Trung Trung Đỉnh còn cái tên cha sinh mẹ đẻ là Phạm Trung Đỉnh chứ chưa dùng bút danh. Ông là lính địa phương sống với dân làng Bahnar quanh núi Hòn Koong, núi Hảnh Hót và chân đèo An Khê ở Huyện đội Khu 8. Ông chỉ mới viết được truyện ngắn đầu tay Những khấc coong chung in trên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ. Cắt rừng đi bộ mong gặp được nhà văn nổi tiếng Khuất Quang Thụy nhưng đúng lúc ngủ trưa, hạ sĩ Phạm Trung Đỉnh đi đi lại lại trước cửa phòng nhà văn lớn mà không dám gõ cửa, để nhờ đọc bản thảo truyện ngắn mới viết và nghe lời góp ý. Chờ lâu quá, đành phải về sợ mặt trời xuống núi, lạc rừng. Sau này, hai ông đều cùng nhau công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, thỉnh thoảng lại kể câu chuyện này.

*

Đầu giờ chiều 30 tháng Tư năm 1975, nhà văn Khuất Quang Thụy có mặt ở cửa sau Dinh Độc Lập thì cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 64, Sư đoàn 320 đã cắm chi chít những lá cờ nhỏ một cách khiêm nhường lên cổng sắt, tường rào, bãi cỏ, ngọn cây phía Tây Dinh Độc Lập. Ông kể với tôi, lúc vào dinh ông lấy được một tập giấy tiêu đề “Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa” ở đầu trang. Lấy chỉ để cuộn thuốc rê hút và làm giấy viết thư về nhà cho bố mẹ. Bởi anh lính trẻ Khuất Quang Thụy khi ấy đã có thâm niên 8 năm đánh nhau ở rừng nhiều phen đói khát, thiếu thốn phải lấy lá rừng cuốn thuốc, có lúc chép thơ trên mảnh cây vầu làm báo tường đại đội. Bỗng nhiên, lúc ấy có một anh phóng viên Thông tấn xã Việt Nam vác máy ghi âm đến phỏng vấn ông và một số người lính khác về cảm xúc người lính tiến vào dinh lũy cuối cùng của kẻ thù, mới biết ông là Khuất Quang Thụy - là tác giả những bài thơ, bút ký anh ấy từng nghe trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Anh phóng viên bèn nhờ ông viết bài tường thuật cánh quân hướng Tây đánh căn cứ Đồng Dù tiến vào Sài Gòn. Vậy là, trong lúc thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng súng AK bắn chỉ thiên chào mừng Sài Gòn giải phóng, và bạt ngàn bộ đội từ các ngả tiếp tục tiến vào dinh lũy cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, ông kê tập giấy ấy lên đùi viết thiên bút ký nóng hổi mùi thuốc súng ngay ở hậu Dinh Độc Lập. Sau đó, tác phẩm ấy được đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Đời viết báo viết văn có mấy người vinh quang như thế?

*

Nhà văn Khuất Quang Thụy có cái xe cub DD đỏ huyền thoại. Dạo tôi mới về tòa soạn Văn nghệ Quân đội, ông đưa con gái xuống ở cùng cho cháu học đại học. Hai bố con hàng ngày làm việc học hành, rau cháo nuôi nhau, rồi cuối tuần ông lại phóng xe máy DD màu đỏ chở con về quê. Dưa cà, mắm muối, gạo ngô… chở xuống Hà Nội; sách vở, tiểu thuyết chở về làng. Tất tần tật đều chất lên cái xe cub DD đỏ, rồi đi làm phóng viên xuống các đơn vị, cơ quan, viết sử sư đoàn, quận huyện cũng cưỡi con xe thần thánh ấy đi. Nhà văn Khuất Quang Thụy là một người tốt, người tử tế, người lành hiền, chân thật chân thành. Mấy chục năm sống cùng cơ quan, làm việc cùng ông chưa bao giờ tôi thấy ông chê bai văn chương của ai. Cũng chưa thấy ông chê ai xấu. Ông sống thân mật gần gũi, đôi khi hồn nhiên đến vụng dại. Vụng dại nhưng lại là người có trách nhiệm với việc mình gây ra. Người ta làm tròn trách nhiệm với một chốn đã bạc mặt, ông tròn vai trách nhiệm với tất cả. Ông chu đáo, tròn vai với gia đình, với vợ con đề huề, với những người thân đau đáu, với bạn bè nồng nhiệt, với cơ quan gắn bó mà đôi khi quên cả mình. Ông hết lòng thương yêu vợ con.

Khuất Quang Thụy là người tình cảm và cả nể. Bà Hồ Xuân Hương bảo “Cả nể cho nên sự dở dang”. Ông lắm sự dở dang, cái sự dở dang của người tốt tính và cả nể. Cả nể vì thương người, vì cảm xúc mạnh không kìm nén được. Cái tính thương người và cả nể nhìn rõ ràng nhất là năm nào cũng thấy ông cưu mang cháu chắt, con hàng xóm, con bạn bè xuống tá túc ở phòng làm việc của ông, rồi nhờ ông chở đi thi vào đại học. Tôi bảo: “Cái sự vụ lặt vặt ngoài văn chương này lấy của bác nhiều thời gian quá.” Ông cười hiền, bảo: “Các cháu ở quê xuống Thủ đô lúng túng, vụng dại, thương lắm. Lỡ chúng nó lóng ngóng chậm giờ thi thì chậm một nhịp, có khi thay đổi cả cuộc đời.” Nhà văn, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng nhiều lần khoe với tôi được ông Khuất Quang Thụy cho tá túc ở số 4, Lý Nam Đế, chở đi ăn sáng, chở xuống Thượng Đình thi vào Đại học Tổng hợp, chở lên Nguyễn Phong Sắc thi vào Học viện Báo chí, tối đến đưa đi đãi cơm bụi với các ông lớn Lê Lựu, Trần Đăng Khoa. Bây giờ, Hoàng đã lên đến đỉnh cao của sự nghiệp viết, đi xe ô tô sang mấy tỷ đồng mà vẫn không quên cái xe cub DD đỏ thần thánh ấy.

Khuất Quang Thụy là nhà văn ngổn ngang tâm tư, nội tâm luôn bị chia cắt, giằng xé. Người ta đứng trước ngã ba đường đã khốn khổ, còn ông như một người đứng trước ngã tư, ngã năm bời bời chọn lựa. Khi tôi về Tạp chí Văn nghệ Quân đội thì ông nghiện thuốc lá đã nặng lắm. Hầu như lúc nào điếu thuốc cũng gắn trên đôi môi thâm sì, thâm sì vì sốt rét rừng triền miên thời thanh xuân đánh nhau ở Tây Nguyên, thâm sì vì chất nicotin và khói thuốc lá. Khói thuốc lá ám vào người ông và ngấm vào tường phòng làm việc đến mức ruồi muỗi và thạch sùng chạy sạch, không dám ở.

*

Khuất Quang Thụy đến với văn chương bắt đầu bằng thơ, ông có Hoa trên đường viết khi đơn vị đánh nhau ở Gia Lai năm 1973. Bài thơ của một thời trong sáng, lãng mạn và náo nức ra trận nâng bước các chiến sĩ trên đường hành quân thật quý giá. Ở Mặt trận B3, lính tráng chuyền tay nhau đọc thơ Khuất Quang Thụy, nhưng đúng như nhà văn Cao Tiến Lê nhận định, văn xuôi mới là sở trường của Khuất Quang Thụy. Ông có nhiều truyện ngắn rất ấn tượng như: Người ở bến Phù Vân, Bạn đò dọc, Anh Sức… Tôi đọc truyện ngắn Người ở bến Phù Vân vào khoảng năm 1982, nhớ mãi bởi chất thơ và câu chuyện lãng mạn Nhà Vân bên bến Phù Vân/ Thương nhau xa cũng nên gần, hỡi ai. Với nhân vật trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Sinh, nhà văn Khuất Quang Thụy là một trong những tác giả sớm đổi mới, ông nhìn thấy con người trong chiến tranh và hậu chiến với những góc cạnh đa dạng, phong phú, và sinh động tốt xấu, chứ không chỉ đơn giản một chiều ngợi ca.

Bạn đò dọc in năm 1984 có lẽ là tác phẩm hay nhất trong truyện ngắn Khuất Quang Thụy? Ông viết về sự lựa chọn của con người, đời người, của tình huống cuộc sống, lựa chọn và quyết liệt bảo vệ sự lựa chọn của bản thân không hề hối tiếc: Sóng to, nước cả khôn chừng/ Đã xuống đò dọc xin đừng run tay. Quay lưng với cái chung, lựa chọn cái riêng nhưng không phản bội, làm hại cái chung, và đồng đội. Bạn đò ngang thì đi qua cuộc đời chốc lát, bạn đò dọc thì trọn đời sống chết. Con người trong chiến tranh xù xì, góc cạnh, chung riêng, tốt xấu chứ không vo tròn, gọt nhẵn… là cái nhìn mới của Khuất Quang Thụy.

Có người đi đánh nhau rồi viết văn, có người “đi xem” đánh nhau rồi viết văn, có người đọc sách, nghe kể rồi viết văn. Nhà văn Khuất Quang Thụy thuộc dạng người đi đánh nhau tơi bời khói lửa rồi viết văn, vừa đánh giặc vừa viết văn. Ông là nhà văn chiến sĩ đúng nghĩa nhất với cụm từ này. Truyện ngắn và bút ký Khuất Quang Thụy in đều đều trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội suốt ba thập niên cuối thế kỷ 20 và in dấu trong lòng bạn đọc, nhưng tiểu thuyết mới làm nên vóc dáng, gương mặt, chiều sâu tâm hồn, tư tưởng của ông, đưa ông lên tầm cao hẳn. Tiểu thuyết đầu tay Trong cơn gió lốc hoàn thành tháng 3 năm 1978, sau đó Nxb Quân đội nhân dân in năm 1979, phát hành 50.000 bản. Chưa đến 30 tuổi, tiếng tăm Khuất Quang Thụy nổi như cồn khắp ngoài Bắc trong Nam. Nhà văn Trung Trung Đỉnh nhiều lần nói với tôi: Những năm đầu sau chiến tranh có ba quyển tiểu thuyết đình đám như một hiện tượng văn học, gây chú ý nhất, đáng đọc nhất lúc bấy giờ là: Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Năm 1975, họ sống như thế của Nguyễn Trí Huân, và Nắng đồng bằng của Chu Lai. Quả thật, sau chiến tranh có mấy năm, thời gian chưa đủ dài cho các sự kiện lớn lao lắng lại, trong khi bao nhiêu nhà văn đàn anh còn đang nghĩ ngợi chiêm nghiệm, mà ba nhà văn quân đội chỉ trên dưới ba mươi tuổi đã cho ra đời ba cuốn tiểu thuyết đình đám ấy, cũng là sự lạ.

Trong cơn gió lốc được giọng văn hoạt, phóng khoáng và tươi mới, không khí chiến trận nóng hổi, “dậy” mùi thuốc súng. Văn Trong cơn gió lốc là thứ văn của người đi đánh trận rồi viết văn. Sau gần nửa thế kỷ rồi, Trong cơn gió lốc vẫn tái bản, vẫn được bạn đọc đón nhận, đặc biệt là bạn đọc đã qua chiến tranh. Nếu như Trong cơn gió lốc còn non chất tiểu thuyết, già chất ký sự, thiên về hành động thì đến Góc tăm tối cuối cùng hoàn thành tháng 11 năm 1987 lại là tác phẩm có đậm chất tiểu thuyết. Các nhân vật trong Góc tăm tối cuối cùng bị phân hóa trong chiến tranh, và cả hậu chiến, có cái đẹp, cái tráng, có cái xấu, cái bi. Góc tăm tối cuối cùng viết về con người đã qua chiến tranh mà không có tiếng súng đạn nổ, bom rơi, lửa cháy, chết chóc. Nhân vật có tính cách, có số phận, có chiều sâu nội tâm. Chiến tranh như một cuộc va đập của hai tiểu hành tinh, mà mỗi nhân vật như mảnh vỡ của ngôi sao văng ra, lại va đập với nhau một lần nữa trong đời thường. Có thể nói Góc tăm tối cuối cùng là một trong những tiểu thuyết ấn tượng thời đầu Đổi mới.

Nhà văn Khuất Quang Thụy là người không chịu cũ, không chịu ngồi im, luôn nghĩ ngợi, tìm tòi. Cảm hứng sử thi là chủ đạo, Những bức tường lửa viết về người anh hùng, chủ nghĩa anh hùng, luận về anh hùng trận mạc. Chiến tranh đi qua, thì cũng biết bao nhiêu người anh hùng hy sinh, biết bao nhiêu cái đẹp bị hủy diệt; bao nhiêu hậu quả để lại chật cứng đời thường. Cái dạo ông in tiểu thuyết Những bức tường lửa có người khen, có người chê, dù được giải Nhất về đề tài chiến tranh - cách mạng của Bộ Quốc phòng trong 5 năm 1999 - 2004, nhưng sự thực nó chưa gây được một sang chấn mạnh cho người đọc một phần nó chưa mới và khác. Vẫn là cuộc chiến tranh và người can dự của một bên chiến thắng. Điều này, ông cũng nhận ra, và ông cũng không thật vừa lòng. Ông âm ỉ nung nấu viết một cái gì đó đột sáng, vỡ òa. Trong một lần ông ghé sang phòng tôi chơi, nói lại câu chuyện này, cứ muốn ông làm được hơn thế, tôi bảo: “Người can dự trực tiếp vào cuộc chiến và viết văn lứa tuổi bác đã cuối chiều. Thời gian của bác đâu có còn nhiều.” Ông trầm ngâm: “Biết thế, nhưng đôi khi cố cũng không được. Mình đang định viết về cả phía bên kia nữa.” Tôi bảo: “Em biết bác bắt tay sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, họ bật lửa Zippo châm thuốc lá quân tiếp dụng cho bác hút dạo bác làm ở Nhà hòa hợp sau Hiệp định Paris năm 1973. Có ai sống với phía bên kia trực quan sinh động như bác? Bác hãy dùng đại bút “đánh trận” cuối cùng đi.” Đến đây, thì ông sôi nổi hẳn lên: “Tớ mất quá nhiều thời gian, tâm sức với tuyến nhân vật Quân đội Sài Gòn. Bề ngoài thì dễ tả dễ kể, nhưng khám phá nội tâm những con người không cùng chiến tuyến, không cùng không gian sống đâu có dễ. Tuổi này mà viết gượng gạo, sống sít thì khó coi lắm.” Nỗi lo xa và lao động nhà văn đã không phụ người sáng tạo, tiểu thuyết Đối chiến có lẽ là đỉnh cao văn chương Khuất Quang Thụy. Chiến tranh đã lùi xa ba mươi năm, Khuất Quang Thụy đủ thời gian để nhìn cuộc chiến tranh bằng cái nhìn khách quan, và tầm nhìn xa hơn, cao hơn, rộng hơn. Ông viết về cuộc đối chiến của Sư đoàn 320 chủ lực mà ông là người can dự với Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971. Hai chiến tuyến, hai hệ thống nhân vật… đối chiến. Những sĩ quan, binh lính Việt Nam Cộng hòa được hiện lên bằng xương thịt, tâm trạng, ý chí một cách khách quan, trước hết họ là những con người bình thường, con người có lý tưởng của phe họ, chứ không phiến diện một chiều cứ ta thì tốt, là anh hùng, địch thì xấu xa hèn yếu. Ông viết Đối chiến nhuần nhuyễn, dung dị, không lên gân, không gồng chữ. Mạch văn nhanh cuồn cuộn chảy.

Đôi khi Khuất Quang Thụy sáng tạo sa đà vào trận đồ lắm lời rậm chữ, rậm rạp như cánh rừng nhiệt đới nhiều tầng lắm cây, có cây lúp xúp và cả cổ thụ quý hiếm, chứ không phải rừng thuần chủng. Rồi ông lại tiết chế, quay trở lại khúc chiết, hàm xúc, không ít những câu, những đoạn ông triết lý về chiến tranh, về cuộc sống sâu sắc, rưng rưng. Sức lôi cuốn của văn Khuất Quang Thụy là ở mạch văn nhanh, mạnh mẽ, tuôn trào. Tôi đồ rằng nhà văn Khuất Quang Thụy không trắng tay, ông vẫn còn vài cây cổ thụ đứng im lìm trên cánh rừng văn chương của đất nước, chẳng hạn như Góc tăm tối cuối cùng, như Đối chiến.

*

Nhà văn Khuất Quang Thụy đã rời cõi tạm về miền cao xanh mây trắng. Cõi tạm này ông đã từng sống sung sướng, sum vầy, hạnh phúc; dù có lúc lam lũ, nhọc nhằn, vụng dại... vẫn là cõi đáng sống. Sống một đời văn, đời người rất khác biệt, ông rất đáng thương nhưng cũng rất đáng để trân quý, nể trọng.

Sương Nguyệt Minh

Đường dẫn bài viết: https://baovannghe.vn/nha-van-khuat-quang-thuy-nhung-quang-sang-trong-lam-lu-nhoc-nhan-20358.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2024 https://baovannghe.vn/ All right reserved.