Tôi đang trở về nhà. Tôi đã nhìn thấy quá nhiều về Việt Nam trong mười tám tháng qua.
Nguyện Chúa phù hộ cho vùng đất này.
Về nước - 10 tháng Chín, 1968.
Mendoza đã ở đây. 12 tháng Chín, 1968. Texas.
Tôi đã bay màu. (Mendoza là bạn chiến đấu của tôi.)
Những bức graffiti xả ra trước giờ bay, vẽ đầy tường sân bay Tân Sơn Nhất, nơi Flynn, trong một khoảnh khắc nghiêm túc hiếm hoi, chúc tôi một câu kiểu ban phước: “Đừng biến kí ức chiến tranh thành món khai vị cho mấy bữa tiệc phù phiếm.” Và Page dúi cho tôi một viên thuốc phiện nhỏ để ăn trên chuyến bay về; mơ màng phê thuốc, trôi qua Wake, Honolulu, San Francisco, New York và ảo ảnh quê nhà. Không gian thuốc phiện, một chữ O tròn lớn, và thời gian bên ngoài thời gian, một chuyến hành trình xảy ra trong vài giây mà như kéo dài hàng năm; thời gian Á châu, không gian Mỹ quốc, không rõ Việt Nam là ở phía đông hay phía tây của trung tâm, ở sau lưng tôi hay vẫn còn trước mặt.
![]() |
Minh họa Ngô Xuân Khôi |
“Riêng tôi thì cuộc chiến này chấm dứt ngay ngày tôi đặt chân về nhà.” Một lính trơn từng nói với bọn tôi vài tuần trước, tháng Tám năm 1968, lúc cả nhóm ngồi tán chuyện sau chuyến hành quân, nói về cái gọi là kết thúc của cuộc chiến.
“Đừng có mà nín thở chờ.” Dana nói.
Quê nhà: hai mươi tám tuổi, cảm giác như lão Rip Van Winkle tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, mang một trái tim như những viên giấy Trung Hoa nhỏ xíu, thả vào nước thì nở bung ra thành hổ, hoa, hay chùa tháp. Trái tim tôi bung ra thành chiến tranh và mất mát. Không có gì xảy ra ở đó mà chưa từng tồn tại ở đây, chỉ là nó đã cuộn lại, chờ sẵn, quay trở lại Thế giới. Tôi chưa từng đi đâu cả, chỉ hoàn tất một nửa vai diễn; cuộc chiến này chỉ có đúng một con đường để đến lấy đi nỗi đau của anh một cách nhanh chóng.
Giờ đây dường như ai cũng quen một người từng ở Việt Nam, và không muốn nói gì về chuyện đó. Có lẽ họ không biết phải bắt đầu từ đâu. Người ta gặp tôi, mặc định rằng tôi biết cách diễn đạt, rồi hỏi tôi có phiền không, nhưng phần lớn câu hỏi là chuyện chính trị, kiểu mẫu mực, ngây ngô - họ vốn đã có sẵn điều họ muốn nghe. Mà tôi thì gần như đã quên sạch cả mớ ngôn ngữ đó.
Một số người thấy khó chịu hoặc hoang mang khi tôi bảo, ngoài tất cả những thứ khác, tôi từng yêu nơi đó. Và nếu ai hỏi kiểu “Cậu có chuyện gì ở bên đó?” thì tôi cũng chẳng biết nói sao. Thế là tôi bảo mình đang cố viết về nó, và không muốn làm nó nhạt đi. Nhưng để làm nhạt nó, trước tiên phải định vị được nó, ghi nhớ bây giờ, khai quật sau, thông tin được in vào mắt, lưu vào não, mã hóa trên da, truyền qua máu - có lẽ đó chính là cái mà họ gọi là “ý thức máu”. Và nó cứ thế được truyền đi, hết lần này đến lần khác, trên những tần số ngày càng mạnh, cho đến khi hoặc là anh tiếp nhận, hoặc là anh chặn nó lại lần cuối. Một cuộc lăng trì bằng dữ liệu - đều chuẩn xác và tinh vi đến mức anh chẳng cảm thấy gì, chỉ là một buổi sáng thức dậy, thấy cái mông mình rớt ra.
Có một lính da đen thuộc Sư đoàn 9 tự gọi mình là “Hý nhân”. Khi tôi hỏi tại sao, gã nói: “Vì tao chơi rock’n’roll.” Rồi bật công tắc chọn chế độ trên khẩu M16 qua lại giữa bán tự động và liên thanh.
Gã bước đi, chuyển động gần như tách đôi, như thể mông đang bám đuôi ngực, khiến thẻ bài đập vào người kêu lách cách. Gã xoay gót, đi lùi vài bước, rồi dừng lại, giơ tay qua đầu. Khi gã thả tay xuống, một trận mưa nặng hạt đổ ào xuống.
“Tao ở đây đủ lâu để gọi con đĩ mẹ thiên nhiên này xuất hiện đúng y một phát, không lệch một ly.”
Gã dồn hết năng lượng và tâm trí vào cái kiểu ngông của mình, thứ đã biến gã thành ngôi sao của đơn vị - nhưng gã không chỉ là một kiểu da đen nhảy nhót mua vui đơn thuần. Vì thế khi hắn nói rằng mỗi lần đi tuần đêm là hắn lại thấy ma, tôi không cười. Và khi gã nói dạo này bắt đầu thấy chính hồn gã ngoài đó, tôi nghĩ mình có chút lạnh sống lưng. “Nào, bình tĩnh, thằng khốn đó ở sau lưng tao cơ.” Gã nói. “Còn khi nó vượt lên trước, thì xác định là mày sẽ bước vào một thế giới đớn đau.”
Tôi cố giải thích rằng có thể cái gã thấy là ánh lân quang tụ lại quanh mấy gốc cây mục, ánh sáng rì rầm lan từ vũng nước ẩm này sang vũng khác.
“Điên.” Gã nói, rồi thêm “Gặp sau.”
Họ đang ủi một nút giao mới nối vào Quốc lộ 22, gần Tây Ninh và khu Tam Giác Sắt cũ, thì máy ủi đụng phải một nghĩa địa của Việt Cộng.
Xương bắt đầu bật lên khỏi mặt đất, chất thành từng đống bên rãnh đất như một cuốn phim trại tập trung đang chạy ngược.
Một rừng máy ảnh, lính mang máy ảnh chạy loạn lên, chụp lia lịa, nhặt xương đem về làm kỉ niệm.
Có lẽ tôi cũng lấy một mẩu; ba tiếng sau, khi quay về Sài Gòn, tôi chẳng còn chắc mình có thực sự thấy nó không.
Khi còn ở đó, cuộc chiến dường như tách biệt khỏi cái mà ta vẫn gọi là cuộc sống thường nhật và hoàn cảnh bình thường - một dị thường lệch chuẩn, ai rồi cũng sẽ dính một cú sốc tâm thần tệ hại, sớm hay muộn, và thường là nhiều hơn một lần, như thể acid trào ngược, tàn dư của một cơn loạn thần chưa dứt.
Có lúc tiếng nhạc rock & roll trộn lẫn với súng liên thanh và tiếng người gào thét.
Có lần, khi đang ăn bít tết ở Sài Gòn, tôi bất giác kết nối miếng thịt với mùi xác cháy ở Huế hồi mùa đông năm trước.
Tệ nhất là khi anh nhìn thấy những người đi lại ngoài phố - những kẻ mà anh đã chứng kiến họ chết trong trạm cứu thương hoặc trên trực thăng.
Cậu lính có hầu kết lớn và cặp kính gọng kim loại, ngồi một mình ở bàn ngoài sân khách sạn Continental, hai tuần trước nó từng là một lính Thủy quân lục chiến chết queo ở Rockpile, lúc chết trông nó còn ung dung hơn nhiều so với bây giờ, khi đang mang phù hiệu Sư đoàn 1 màu đỏ, chật vật gọi một lon Coke từ gã bồi, trong lúc hai con thạch sùng margouilla đuổi nhau trên cái cột trắng phía sau đầu nó.
Tôi tưởng mình sắp xỉu khi thấy cậu ta. Nhìn kĩ lần hai, tôi biết đó không phải ma cũng chẳng phải bản sao - thật ra cũng không giống lắm - nhưng lúc đó cổ họng tôi tắc nghẽn, mặt lạnh ngắt, trắng bệch, run lập cập.
“Không sao đâu, nhóc.” Page nói. “Chỉ là cơn thần kinh lần thứ mười chín của cậu thôi.”
Người ta lúc nào cũng bảo anh không được quên người chết, rồi lại bảo anh đừng để mình nghĩ quá nhiều về họ.
Anh sẽ không thể làm lính, hay làm phóng viên cho ra hồn nếu cứ vướng víu với cái chết, đắm đuối vào mấy kiểu nhạy cảm bệnh hoạn, hay rơi vào trạng thái tang tóc kéo dài.
“Mày sẽ quen thôi.” Ai đó sẽ nói vậy, nhưng tôi thì không, thật ra nó đi theo hướng ngược lại, càng lúc càng riêng tư hơn.
Dana thường có một trò quái đản, hắn chụp ảnh bọn tôi ngay giữa làn đạn, rồi đem tặng lại làm quà.
Có một tấm chụp tôi ở bệ đáp của chiếc Chinook tại Cam Lộ - chỉ có vệt mờ của bàn chân phải chứng minh là tôi chưa hoàn toàn tê liệt - hai mươi bảy tuổi mà trông như năm mươi, với tay ra sau tìm cái mũ sắt và ảo tưởng về sự che chắn.
Phía sau tôi, trong máy bay là xạ thủ cửa, đội mũ bảo hộ to đùng, bên cạnh là một xác chết nằm thẳng trên ghế. Phía trước là một lính thủy quân lục chiến da đen, đang chúi vào, mắt mở lớn, hoảng loạn tận cùng nhìn về phía loạt đạn đang bay tới, cả bốn đứa tụi tôi bị kẹt cứng ở cùng một khung hình, trong lúc Dana nấp sau ống kính, cười khùng khục.
“Địt mẹ mày.” Tôi nói khi hắn đưa ảnh, và hắn bảo: “Tao nghĩ mày nên biết lúc đó mày trông thế nào.”
Tôi không có tấm hình nào của Dana, nhưng cũng chẳng có mấy khả năng tôi sẽ quên được mặt hắn - khuôn mặt tiền tuyến - bởi hắn chưa từng chụp được thứ gì lên phim mà không dính người. Sau ba năm, hắn đã biến thành chính cái thứ mà hắn đến để chụp. Tôi có vài tấm hình của Flynn, nhưng không tấm nào do anh ấy chụp. Flynn đã đi sâu đến mức về sau gần như không còn buồn giơ máy lên nữa. Flynn thì chắc chắn là cắt đứt hẳn với truyền thông rồi - anh mang sau lưng một cuộc chiến khác, nơi anh từng đối mặt và rũ sạch cái nghiệp ngôi sao điện ảnh mục ruỗng đã thiêu rụi cha mình. Nếu Sean có đang diễn, thì hắn là diễn viên cừ khôi. Hắn nói phim ảnh nuốt chửng con người ta - nên hắn chọn làm điều đó trên chiến trường - và chiến trường đã nuốt chửng hắn (không ai tôi từng biết có thể “nghiền” cuộc chiến như anh, Sean).
Flynn và Dana đã cùng biến mất ở đâu đó từ tháng Tư năm 1970, chạy xe xuyên sang Campuchia, “được cho là đã bị bắt”, tin đồn và im lặng kéo dài - MIA, mất tích trong chiến đấu, ít nhất cũng là thế.
Ở đây nó thế, mấy thằng lính trơn bảo, chuyện là vầy: Ngồi ven đường với đám bộ binh thì có một chiếc xe tải 2,5 tấn loại chở lính lạch cạch chạy ngang – bốn cái xác nằm ở thùng sau. Cửa sau hạ xuống nửa chừng, làm bệ đỡ cho đôi chân và mấy đôi giày giờ trông như nặng cả trăm kí mỗi chiếc. Cả đám im phăng phắc khi chiếc xe vấp ổ gà, chân mấy cái xác nảy lên cao rồi đập mạnh xuống cửa sau. “Má nó cứt thật.” Ai đó lầm bầm, và “Chuẩn mẹ nó rồi.” “Ở đây nó thế.”
Tinh chất Việt Nam - nguyên bản chưa pha loãng. Anh có thể quay nó thành những ảo ảnh sọ người sáng rỡ đang cười, hoặc chỉ gọi đó là một cái xác nữa trong bao, có thể nói chiến tranh chẻ anh ra làm hai để gặt, hoặc nó ôm lấy anh như người tình - nhưng chẳng điều gì làm mùi vị nó nhạt đi. Đó là khoảnh khắc nhập môn - khi anh cúi xuống và cắn đứt lưỡi một xác chết. “Tốt cho công việc của mày.” Flynn từng nói vậy. Những kẻ nhớ quá khứ thì cũng bị kết án phải lặp lại nó, đấy là một trò đùa nhỏ của lịch sử.
Đẩy nó đi, xóa sạch mấy món kỉ niệm: một bộ quân phục vừa vặn khoảng một tuần trước khi tôi rời đi, một cái gạt tàn từ Continental, một đống ảnh chụp - như tấm tôi đứng trên đỉnh ngọn đồi tên là Núi Kto, một trong Bảy Chị Em ở vùng đồng bằng - đứng cùng đám lính đánh thuê Campuchia (thực chất là thổ phỉ, mỗi tiểu đội đều mang kềm để nhổ răng vàng), cả đám nhìn như đang vui vẻ lắm, chờ trực thăng đến đón - lối thoát duy nhất. Tụi tôi giữ được căn cứ và đỉnh đồi, nhưng giữa hai chỗ đó thì Việt Cộng chiếm sạch.
Một tấm bản đồ Đông Dương của National Geographic, với khoảng trăm dấu bút chì, mọi nơi tôi từng đặt chân đến, chấm tròn, dấu thập, rồi cả dấu thập to hơn, nơi nào tôi từng ở gần hoặc giữa chiến trận, và lòng kiêu hãnh bảo tôi rằng mình đã thoát, không đến mức “bị thương”. Gắn vào mỗi dấu ấy là một mạng lưới phức tạp của khuôn mặt, giọng nói và chuyển động - tụ lại quanh từng tọa độ. Những nơi có thật, rồi chỉ còn thật khi đã lùi về phía sau, những gương mặt và địa danh, dính phải một sự trật khớp nghiêm trọng, trượt khỏi tâm trí, chơi trò đánh tráo kí ức.
Khi tấm bản đồ mục ra theo các nếp gấp, tinh thần nó vẫn giữ nguyên, nó rơi vào một đôi tay an toàn, dù run rẩy, và chỉ một dấu là đủ: dấu tại LZ Loon. [LZ: Landing Zone - bãi đáp trực thăng, LZ Loon tên một bãi có thật trong chiến tranh Việt Nam, ở gần biên giới Lào - nơi diễn ra các trận đánh đẫm máu năm 1968.]
Khi trời tối, họ hoàn tất vành đai phòng thủ, tăng gấp đôi lính gác, và điều nửa đại đội đi tuần. Một bãi đáp trực thăng hoàn toàn mới chưa được đặt tên của thủy quân lục chiến nằm giữa lòng vùng địch.
Tối hôm đó tôi ngủ như thể đang trong cơn mê morphine, chẳng biết khi nào thức, khi nào ngủ, mắt theo dõi hình tam giác đen của cửa lều bật lên: từ đen sang lam thẫm, rồi trắng sương, rồi vàng nắng, và cảm thấy dậy được rồi.
Ngay trước khi tôi bay về Đà Nẵng, họ đặt tên chỗ đó là LZ Loon, và Flynn nói: “Đáng ra phải đặt cái tên ấy cho cả cái đất nước này.” [Loon tiếng lóng Mỹ thường có nghĩa “vùng chết” và cả “cuộc sống điên loạn”.] Một cái tên cụ thể hơn nhiều so với “Việt Nam”, để gọi không gian của cái chết, và cuộc sống mà anh tìm thấy bên trong đó.
Hôm đó, khi bọn tôi dựng lại Loon trên bãi biển China Beach, chúng tôi cười đến mức không ngồi dậy nổi.
Tôi yêu cánh cửa. Yêu cái cảm giác khi máy bay hơi nghiêng, hất tôi về phía mặt đất - bay ở độ cao trăm feet. Nhiều người nghĩ mở cửa như vậy khiến anh dễ gặp nguy hiểm hơn, đạn dưới đất có thể tạt thẳng vào, thay vì chỉ cắt thủy lực hay làm bung con ốc chúa giữ trục cánh quạt.
Một thằng bạn tôi nói nó không thể ngồi nổi chỗ đó, cửa mở khiến nó cảm thấy như mê lịm đi, nó sợ mình sẽ lật chốt dây an toàn và cứ thế trôi tuột ra ngoài. Nhưng tôi thì sợ sẵn rồi, nhốt bên trong còn sợ nhiều hơn, nhìn thấy vẫn hơn. Tôi không đi qua ngần ấy thứ chỉ để… không nhìn thấy gì.
Nửa đêm, trên bầu trời Vĩnh Long, chiếc trực thăng vũ trang thực hiện bảy hay tám đợt quần thảo tầm thấp phía trên một đại đội Việt Cộng ở rìa đông thành phố. Lúc đầu, lằn đạn chỉ bắn xé vào bóng tối, mất đà rồi tắt thành tia lửa, hoặc nảy một, hai lần dưới đất. Rồi pháo sáng rọi lên, lộ rõ đám đông đang chạy giữa khoảng trống, và đạn vạch đường của ta bắt đầu tắt ngang. Khói từ lựu đạn phốt pho trắng sáng đến mức phải nheo mắt mới dám nhìn. Đến bốn giờ sáng, một nửa thành phố đã cháy.
Phóng viên không được phép lên trực thăng chiến đấu, nhưng đây là đêm thứ hai của Tết Mậu Thân - hỗn loạn hoàn toàn, không còn luật lệ gì. Tôi không bao giờ được đi cùng chuyến nào như thế nữa.
Một chiếc gunship bay ở mỗi bên khi chúng tôi tiến vào Huế, hộ tống một chiếc Chinook chở đạn bằng dây treo.
Chúng tôi theo dòng sông, tiến vào kinh thành qua một khe hẹp, bên phải là rừng rậm, bên trái là nghĩa địa. Ở độ cao trăm feet, chúng tôi bắt đầu ăn đạn từ dưới đất.
Phản xạ ăn đạn, siết chặt mông, nhấc người lên khỏi ghế vài phân. Mày dùng đến những nhóm cơ mà trước đó còn chẳng biết là mình có.
Có lần tôi ở trên một chiếc trực thăng trúng đạn - rơi tự do chừng ba trăm feet trước khi phi công đạp cần vào chế độ hãm, kéo chúng tôi trở lại không trung và… về lại với cõi sống. Trên đường quay về căn cứ, chúng tôi bay ngang qua ba chiếc vừa bị bắn rơi, nằm gần nhau - hai chiếc nát vụn hoàn toàn, chiếc thứ ba gần như còn nguyên, nhưng xung quanh là thi thể của phi hành đoàn và viên chỉ huy lữ đoàn. Tất cả đều chết, sau khi chạm đất.
Chiều hôm đó tôi ra ngoài quẩy vòng vòng trên trời trong chiếc trực thăng trinh sát, bay cùng phi công ngôi sao của Sư đoàn Kỵ binh. Chúng tôi bay sát mặt đất, bay bám địa hình - chỉ cách đất vài feet, sượt qua ngọn cây, mấy mái tranh. Rồi đến khúc sông uốn lượn qua khe núi, vách dựng đứng, gần như một hẻm vực, và anh ta bay theo dòng nước, lượn qua từng khúc cua mù như một tay lão luyện. Ra khỏi khe, anh ta tăng tốc, lao thẳng về phía rừng, lẽ ra phải vọt lên, thì lại hạ xuống, và tôi cảm thấy một khoảnh khắc đông cứng sắc lạnh của cái chết chắc mẩm. Ngay dưới tán cây, giữa một cú rẽ gắt lắc cả thân máy bay, tôi thậm chí không thể cười khi thoát ra. Tôi không thể cử động, mọi thứ như một bức ảnh chớp sáng, bóng tối cứng lại thành rìa nét. “Thằng đó bay được cả vào tận đít nó.” Ai đó nói khi về đến bãi đáp. Còn phi công bước tới bảo: “Tiếc là không bị bắn. Tao đang muốn cho mày xem màn né đạn của tao cơ.”
Tại trại A của Lực lượng Đặc biệt ở Me Phuc Tay có một tấm biển ghi:
“Giết vì tiền là lính đánh thuê. Giết vì khoái là kẻ cuồng sát. Giết vì cả hai - là Mũ nồi xanh.” Nhạc ở Me Phuc Tay thì rất tuyệt - chỉ huy ở đó mê Stones.
Ở An Hòa, tụi tôi nghe trên radio bài Hungry for those good things baby, Hungry through and through [Anh khao khát những điều tốt đẹp, em yêu - khao khát đến tận cùng] trong lúc cố bắt chuyện với một lính thủy quân lục chiến là anh hùng thực sự, vừa đưa nguyên tiểu đội rút khỏi một trận cực căng, nhưng anh ta khóc đến mức không nói nổi câu nào.
“Galveston oh Galveston I’m so afraid of dying” [Galveston, ôi Galveston, tôi sợ chết lắm] ở LZ Stud - hai thằng lính của đơn vị tử sĩ đang cãi nhau. “Nó nổi khùng vì người ta không cho nó may phù hiệu kỵ binh lên túi đựng xác.” Một đứa nói. Đứa kia thì trề môi: “Địt mẹ mày. Tao nói thật đấy. Tao thấy nó trông ngầu vãi.”
Huế thì chỉ có một bài duy nhất: We gotta get out of this place if it’s the last thing we ever do [Tụi mình phải thoát khỏi cái chỗ này, kể cả nếu đó là việc cuối cùng]. Một phóng viên bạn tôi trông như vỡ não toàn tập bởi sáng đó tỉnh dậy, nghe hai thằng lính thủy quân lục chiến nằm cạnh đang làm tình với nhau.
“Black is black I want my baby back” [Đen là đen tôi muốn người yêu tôi quay lại] ở China Beach, với IGOR TỪ PHƯƠNG BẮC, tay này chơi bài ra toàn át bích.
Hắn đội sombrero, choàng serape [mũ rộng vành và khăn choàng kiểu Mexico] và mặt sắt đen sì. Gần như sống luôn ngoài bãi. Cứ mỗi lần nâng điểm hạ gục, họ lại cho hắn về biển nghỉ. Trong một giờ hắn chỉ nói đúng hai lần, bằng thứ ngôn ngữ chậm và sắc như đạn lên nòng. Cuối cùng hắn đứng dậy: “Đi Đông Hà, giết tiếp.” Rồi đi.
“I said shot-gun, shoot ’em ’fore they run now” [Tôi bảo dùng shotgun - bắn trước khi tụi nó kịp chạy] ở Nha Trang - đang nói chuyện với một tay vừa bắt đầu tour thứ hai. “Khi tao về nước, tao thấy tụi bây sợ. Ý tao là không phải sợ trong kiểu trận đánh hay gì đâu, nhưng tin tao đi - tụi bây sợ. Tao thấy ở đây, thấy ở kia - đéo sao cả. Tao quay lại.”
Không có âm thanh gì trên con đường ra khỏi Cần Thơ. Hai mươi đứa xếp hàng thẳng tắp, rồi bất ngờ giãn ra thành một vòng cung - vòng thật rộng để tránh một người đàn ông Việt Nam đứng im, không nói một lời, đưa đứa con chết ra trước mặt chúng tôi. Tụi tôi cuốn gói khỏi đó để lại bụi sau lưng. Tôi thề với Chúa là tôi sẽ rút khỏi đây sớm nhất có thể. Chỉ còn tám tháng nữa thôi.
Ngoài đường, tôi chẳng phân biệt nổi đâu là cựu binh Việt Nam, đâu là cựu binh rock & roll. “Thập niên 60 tạo ra quá nhiều thương vong - chiến tranh và âm nhạc cùng chạy trên một nguồn điện quá lâu, đến mức chẳng cần cầu chì nữa.” Chiến tranh huấn luyện anh cho những năm què quặt phía sau, trong khi rock & roll thì trở nên rực rỡ và nguy hiểm hơn cả đấu bò - các ngôi sao nhạc rock bắt đầu ngã xuống như mấy thiếu úy non nớt; khoái cảm, cái chết, và (dĩ nhiên, tất nhiên) sự sống - nhưng khi đó không ai thấy thế cả.
Điều mà tôi tưởng là hai nỗi ám ảnh hóa ra chỉ là một. Tôi không biết phải nói sao cho bạn hiểu, điều đó khiến đời tôi rối đến mức nào. Vừa lạnh buốt, vừa cháy bỏng, rồi lại trượt xuống lớp bùn lầy văn hóa - bám chặt lấy, và di chuyển thật chậm.
Tháng Mười Hai năm đó, tôi nhận được một tấm thiệp Giáng Sinh từ một lính thủy quân lục chiến mà tôi từng biết ở Huế. Thiệp vẽ Snoopy kiểu tâm thần, mặc đồ trận rách rưới, ngậm thuốc lá, đang nã đạn với khẩu M-16.
Dòng chữ ghi: “Hòa bình dưới thế, thiện chí cho nhân loại.” Và “Chúc một năm Một-Chín-Sáu-Chín vui vẻ.”
Có thể đó là một điều kinh điển, có thể cái tôi nhớ thực ra là tuổi hai mươi của mình chứ không phải thập niên 60 - nhưng tôi bắt đầu nhớ cả hai, ngay cả khi chúng vẫn chưa thực sự kết thúc.
Năm đó nóng đến mức tôi nghĩ nó đã làm đoản mạch cả thập niên, những gì sau đó là biến dị - một thứ 1969-X, khủng khiếp và khác thường. Không chỉ là chuyện tôi đang già đi - mà là thời gian đang rỉ ra khỏi người tôi, như thể tôi ăn một mảnh lựu đạn từ mấy loại vũ khí sát thương đặc biệt của ta, nhỏ đến mức có thể giết người mà X-quang cũng không tìm thấy. Hemingway từng mô tả khoảnh khắc ông nhìn thấy linh hồn mình sau khi bị thương - trông như một chiếc khăn tay trắng mịn trôi ra khỏi cơ thể, bay đi, rồi quay lại. Còn thứ bay ra khỏi tôi giống như một cái dù xám khổng lồ - tôi lơ lửng ở đó rất lâu, chờ nó bung ra. Hoặc không. Sự sống và cái chết của tôi hòa lẫn với sống chết của họ - tôi cứ lảo đảo lê bước trong điệu chênh vênh của kẻ sống sót, dò xem sức kéo từ mỗi phía, mà chẳng thực sự muốn nghiêng hẳn về bên nào. Có lúc đầu óc tôi sa xuống tệ đến mức tôi từng nghĩ: mấy người chết có khi chỉ là được buông tha khỏi một nỗi đau quá lớn. Tôi được giải ảo bằng những giấc mơ, bạn bè từ phía bên kia kéo về, xem tôi còn sống không. Đôi khi họ trông như đã năm trăm tuổi, đôi khi trông đúng hệt như lúc tôi gặp họ lần cuối - nhưng đứng dưới một thứ ánh sáng lạ; ánh sáng kể câu chuyện, và nó không kết thúc như bất kì truyện chiến tranh nào tôi từng tưởng tượng. Nếu anh không tìm được can đảm trong một cuộc chiến, thì vẫn phải tiếp tục tìm - nhưng không phải trong cuộc chiến khác. Phải tìm ở nơi nó đã cũ kĩ, mắc kẹt, đến mức đá cũng bắt đầu cựa mình, một chút ánh sáng, một chút khí trời, lâu quá không gặp.
Tần số khác. Thông tin khác, và cái chết không ngăn được việc tiếp nhận nó. Chiến tranh kết thúc. Rồi nó thực sự kết thúc. Các thành phố “thất thủ”, tôi nhìn thấy những chiếc trực thăng mà tôi từng yêu rơi xuống Biển Đông, những phi công Việt Nam nhảy thoát ra khỏi buồng lái, và một chiếc cuối cùng khởi động, cất cánh - rồi bay ra khỏi ngực tôi.
Tôi thấy một bức ảnh chụp một người lính Bắc Việt đang ngồi đúng chỗ bên sông Đà Nẵng – nơi từng là trung tâm báo chí, nơi bọn tôi từng ngồi hút thuốc, đùa giỡn và buột miệng: “Quá tải luôn!” “Kinh dị quá man!” “Trời ơi, ngoài đó phê vãi đạn!” Anh ta trông bình yên đến mức khó tin. Tôi biết, đâu đó trong đêm ấy và mọi đêm, sẽ có người ngồi cùng nhau bên đó, nói chuyện về những ngày hội điên khùng cũ - và sẽ có một người trong số họ nhớ ra và nói: Ừ, thôi kệ - cũng có những khoảnh khắc đẹp. Và tôi chẳng còn nước đi nào nữa, ngoài việc viết vài lời cuối cùng, rồi rút lui. Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam - tất cả chúng ta đã từng ở đó.
Mai Anh
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh
Đường dẫn bài viết: https://baovannghe.vn/tho-ra-but-ky-cua-michael-herr-21294.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2024 https://baovannghe.vn/ All right reserved.