Tục đánh dấu chủ quyền của người Tày

Trước kia, khi đất còn rộng, người còn thưa nhất là vùng núi cao nơi có các dân tộc ít người sinh sống, trong đó có người Tày. Khác với các dân tộc anh em như người Dao, người Mông và một số dân tộc vùng núi cao sống du canh, du cư.

Khác với các dân tộc anh em như người Dao, người Mông và một số dân tộc vùng núi cao sống du canh, du cư.

Người Tày thường định cư ở một nơi cố định từ đời này qua đời khác với những cánh đồng bậc thang, ngôi nhà sàn được làm bằng gỗ tứ thiết như trai, nghiến nghệ, dổi đá, lát,… tồn tại hàng trăm năm. Họ sống thành từng nhóm hộ được phân chia theo chi họ và anh em đằng trai hoặc gái. Với những cách sống quần cư như vậy đã hình thành nên chủ quyền về đất đai của các hộ, các nhóm hộ trong cùng một bản. Tuy nhiên, họ vẫn sống rất đoàn kết, chia sẻ và đùm bọc lẫn nhau, không bao giờ xâm phạm của cải riêng tư của từng hộ hoặc tranh chấp đất đai của các hộ khác. Để mở rộng quy mô sản xuất, ngoài làm ruộng nước, bà con dân tộc Tày còn phát thêm nương rẫy. Họ gieo lúa đặc sản, khi đất đã không còn phù hợp với cây lúa cạn, họ chuyển sang trồng cây hoa màu như ngô, sắn và cuối cùng là trồng cây lâm nghiệp lâu năm như quế, trẩu, dổi xen với cây cọ để lợp nhà. Đồng thời cũng xác lập chủ quyền đối với mảnh đất đã luân canh đó. Cũng do nhu cầu phát triển sản xuất và nhân khẩu đã tăng thêm nơi ở cũ chật hẹp, một số gia đình đã tìm các bưa, bãi bằng bên cạnh con suối hay nơi có nguồn nước thuận lợi để khai hoang mở rộng diện tích lúa nước, hình thành nên một bản mới có cả ruộng lúa, nương rẫy cũng như những khu rừng trồng đều có chủ.

Nghề đan lát truyền thống của đồng bào dân tộc Tày
Nghề đan lát truyền thống của đồng bào dân tộc Tày

Để làm được những công việc lớn trên đây, người Tày phải có những Luật tục riêng được ghi chép bằng chữ Tày trong các cuốn sách cổ. Luật quy định rất chặt chẽ: Chẳng hạn như khi đi tìm chỗ đất mới để làm ruộng hay nương, họ thường phát xung quanh diện tích cần khai phá sau đó lấy nan nứa hoặc nan cây giang đan kiểu mắt cáo thành một mảnh nhỏ chừng 4dm2 (người Tày gọi là Ta leo), sau đó tìm một cây gỗ chỗ thoáng nhất, cao bằng tầm mắt, dễ quan sát rồi buộc tấm mắt cáo lên. Người đi sau khi tìm đến địa điểm trên nhìn thấy dấu chủ quyền thì biết rằng đã có chủ và bỏ đi tìm chỗ khác. Đó là việc đánh dấu đất đai, nguồn nước, còn khi chuẩn bị lấy gỗ làm nhà, người Tày thường vào rừng nguyên sinh, khi đã tìm thấy cây ưng ý, họ cũng phát xung quanh gốc cây và dùng dao sắc vạch hai đường chữ thập nơi sẽ đặt nhát rìu đầu tiên để đổ cây. Người khác nhìn thấy dấu này thì tự giác tìm cây khác để khai thác. Người Tày còn có tục lệ khi vào rừng nhìn thấy tổ ong khoái hay ong mật, tổ ong vò vẽ loại to như cái thúng, họ cũng phát cây nhỏ xung quanh gốc và dùng dao vạch cây, đánh dấu hình chữ thập đồng thời chặt một cây gỗ nhỏ bằng đầu ngón chân cái cắm một đầu xuống đất, chẻ đôi đầu trên, dùng một đoạn gỗ khác chừng 50 cm gài vào đầu cây đã chẻ tìm nơi dễ qua sát nhất và chỉ hướng vào nơi ong làm tổ. Khi nhìn thấy ký hiệu này, mọi người tự giác không ai được khai thác vì đã có chủ.

Với cách đánh dấu chủ quyền như trên ở các cánh rừng già còn có những hang chuột, hang don của riêng từng hộ được đánh dấu theo cách riêng, ai cũng thừa nhận. Họ săn bắt hàng năm bằng cách dùng những tấm lưới to đan bằng sợi gai đặt vào lối đi thường xuyên của chúng quanh nơi ở. Khi bắt được con cái hay con đực đầu đàn, người đi săn thường thả trở lại rừng cho chúng sinh sản tiếp, chỉ lấy con đực đã trưởng thành. Người dân kể lại rằng, gia đình quan lang Đinh Công Phủ trước kia sở hữu hàng chục hang don, hang chuột. Vào dịp gần tết Nguyên đán (khoảng tháng 10, tháng 11 âm lịch), quan sai người hầu đi đặt lưới hoặc bẫy hàng chục con don về làm thịt sấy khô để cúng tổ tiên hay đãi quan Tây.

Đối với người đã khuất, việc xin đất để xác lập chủ quyền cho họ cũng rất cầu kỳ. Thầy xem đất phải đi từ tờ mờ sáng đem theo một thẻ hương, một bông lúa, một con dao và cái thuổng đào đất. Tới nơi cần đào mộ, thầy phải thắp hương cúng thổ công xin âm dương ba lần, sau đó đào một cái hố nhỏ hình tròn chính giữa mộ. Ở tâm hố đóng một đoạn gỗ nhỏ, đầu trên gọt bằng phẳng đặt hạt lúa đầu tiên, hướng một đầu về phía trước, vừa đặt vừa khấn gọi là hạt hướng mả. Phía dưới chân xung quanh cọc, đặt những hạt lúa với các lời cầu khấn tiền vận, hậu vận cho từng hạt là con trai trưởng, các con trai gái còn lại và các hạt lúa về chăn nuôi gia súc, gia cầm, vận mệnh, mùa màng làm ăn của các con cháu. Thầy dùng lá xanh úp nhẹ vào hố đất, đợi khoảng 20 đến 30 phút, thầy mới mở lá ra. Nếu các hạt lúa còn nguyên vị trí thì coi như xác lập chủ quyền cho người mất đã xong, nếu các hạt lúa bị xô đẩy thì phải tìm nơi khác. Khi đã tìm được nơi ổn định thì chặt một đoạn cây dài chừng 2 mét cắm một đầu xuống phía chân lỗ huyệt sau đó dùng đan nan mắt cáo (Ta leo) như các công việc đánh dấu khác rồi gài lên cọc vừa cắm chính thức xác lập chủ quyền chỗ ở cho người đã khuất. Người đào huyệt chỉ việc nhìn nơi đánh dấu rồi tiến hành công việc. Người viết bài cũng từng trải nghiệm xin nhà mồ cho hàng chục người qua đời trong khoảng 20 năm. Tất cả đều yên ổn, con cháu khoẻ mạnh, thành đạt, có lẽ cũng xuất phát từ câu các cụ truyền lại “Giầu tại nhà, già tại mả, nên quan tại số”. Việc đánh dấu xác lập chủ quyền không phức tạp nhưng đòi hỏi người thực hiện phải có kiến thức nhất định về địa lý, tướng số,… và quan trọng là phải biết chữ Tày cổ để thực hiện theo hướng dẫn trong sách.

Tục xác lập chủ quyền trong các lĩnh vực đời sống của đồng bào Tày có từ thời xa xưa và vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Một nét văn hoá đẹp cần được bảo tồn và phát huy trong những giá trị Tri thức bản địa dân tộc.

Để học sinh sống cùng đời sống văn hóa dân tộc Giữ lửa các trò chơi dân gian và các môn thể thao dân tộc Hỗ trợ chi phí sinh hoạt cho đồng bào các dân tộc ở Làng Văn hóa Hồn điệu của người Nùng Xuân Dương Vài nét về văn học dân tộc thiểu số, miền núi sau 1975
Lường Đức Chôm

Đường dẫn bài viết: https://baovannghe.vn/tuc-danh-dau-chu-quyen-cua-nguoi-tay-14761.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2024 https://baovannghe.vn/ All right reserved.