Văn học dân tộc thiểu số, miền núi sau 1975 - đất nước thống nhất cùng những thay đổi về kinh tế, xã hội, văn học các dân tộc thiểu số, miền núi cũng đã có bước tiến đáng ghi nhận. Từ kháng chiến chống Pháp tới chống Mỹ xuất hiện các tác giả, tác phẩm tiêu biểu đóng góp cho nền văn nghệ cả nước. Lĩnh vực văn học phải kể đến những tên tuổi: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Y Điêng. Giai đoạn hòa bình ở miền Bắc (1954) tới thời kỳ chống Mỹ có: Hoàng Hạc, Mã Thế Vinh, Vi Hồng, Vương Trung, Vương Anh, Vi Thị Kim Bình, Bế Thành Long, Ma Trường Nguyên, Lâm Tiến, Lò Ngân Sủn, Quách Ngọc Thiên, Linh Nga Niek Đăm, Y Phương, Mai Liễu, Sa Phong Ba, Triệu Kim Văn, Nga Ri Vê, Ngọc Phượng… Nhiều chuyên ngành khác cũng đã có đóng góp của văn nghệ sĩ dân tộc thiểu số với những tác phẩm đậm bản sắc văn hóa tộc người.
Sau năm 1975 nhiều văn nghệ sĩ trải qua chiến tranh, hoặc trực tiếp chiến đấu nơi chiến trường, được sống trong hòa bình lại tiếp tục với những sáng tác mới. Những tác phẩm mang niềm vui, hạnh phúc của con dân trên đất nước thống nhất toàn vẹn sau bao năm chia cắt, chan chứa niềm tin, hy vọng. Dẫu vẫn phải đối mặt với khó khăn, thiếu thốn khiến lòng không khỏi nghĩ suy, nhưng ý nghĩa của hòa bình đã gạt bỏ hồ nghi, băn khoăn, chỉ để lối duy nhất cho niềm tin vững bước. Thiếu thốn, đói nghèo hôm nay chỉ nhất thời, mai sẽ khác. Đất nước sẽ phát triển, giàu mạnh. Chiến tranh chấm dứt sẽ không còn nữa bom đạn, chia ly, mất mát đau thương. Cuộc sống bình yên, no ấm, đủ đầy rồi sẽ thành hiện thực. Cần lúc này là niềm tin, tình thân ái, xóa bỏ hận thù, chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh. Gì đó khác hơn, lớn lao kỳ vĩ hơn sẽ được dựng xây trên đất nước này. Không gì có thể ngăn một dân tộc vừa trải qua cuộc trường chinh đầy máu và nước mắt quyết giành cho được độc lập, thống nhất non sông. Nhưng có gì đó phân vân dường như vẫn âm thầm song hành với lạc quan.
Vẫn đất, người quê nhà thân thuộc như thuở nào nhưng sau bao năm chiến trận trở về có gì đó khác. Cái sự khác, gợn ấy không phải ở bề ngoài, mà trong mạch mầm ý nghĩ. Có lẽ nào bình yên chỉ là lớp sương phủ trên nỗi niềm chưa thể bày tỏ? Vẫn thiếu thốn, đói nghèo, nếp làm ăn cũ. Dân cần cù, mưa nắng chẳng quản sao chẳng đủ ăn? Lối quản lý, sản xuất, canh tác manh mún, chắp vá, chẳng áp với quyền lợi, trách nhiệm cá nhân có lẽ không còn hợp thời. Băn khoăn, dao động. Cần thiết phải thay đổi mới hòng thoát khỏi lối mòn. Nhưng bắt đầu từ đâu, như thế nào là câu hỏi không dễ trả lời. Chiến tranh kết thúc nhưng dường như nó vẫn đang âm thầm diễn ra trong mỗi gia đình.
Tọa đàm khoa học "Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam từ sau năm 1975" |
Nơi núi cao, rừng thẳm, trai tráng người dân tộc trở về từ cuộc chiến còn phải đối mặt với khó khăn nhiều hơn. Quê nhà xa xôi, heo hút quá! Sau những năm mải miết chiến trận, nay trở về quê, người xưa thưa vắng đi nhiều. Nhưng thiếu đói hình như lại nhiều hơn. Xưa đâu có vậy. Rừng núi mênh mông, người thưa vắng sao chịu cảnh đói nghèo? Có gì đó không ổn! Ý nghĩ bám riết, nảy sinh câu hỏi như thách thức người viết. Từ đam mê bản năng, nhà văn dân tộc thiểu số, miền núi nhận thấy, phải có trách nhiệm ghi lại, lý giải những mâu thuẫn, hạn chế, cần thiết phải có những thay đổi tích cực. Góp tiếng nói chỉ đích danh cũ kỹ lỗi thời, cám dỗ xấu xa, tham lam ngõ hầu giúp đồng bào tiếp cận, mở rộng tầm nhìn, thay đổi suy nghĩ, chung tay hành động hướng tới mục tiêu, tất cả vì ấm no hạnh phúc con người. Trước là để khỏi vấp ngã, rơi vào dòng xoáy như cơn lũ ống đang hình thành nguy cơ đe dọa, tàn phá không gian văn hóa gắn bó bao đời.
Từ hi vọng, thôi thúc ấy, các nhân vật nơi núi cao, rừng thẳm lần lượt xuất hiện trong tác phẩm của họ mang tâm thế, diện mạo mới. Thay bằng lối viết như kể, xuất hiện những tác phẩm mang tính nghệ thuật, có chiều sâu tư tưởng. Đặc trưng tính cách người dân tộc thiểu số với tâm lý, hành động khi đối diện tình huống gay cấn, bất ngờ; những mâu thuẫn ẩn sâu trong quan hệ người với người, người với thiên nhiên, với những luật tục, hủ tục lạc hậu, sự lựa chọn mới hoặc cũ thôi thúc; cả tâm trạng lo lắng, bất an về truyền thống văn hóa đang có nguy cơ biến chất, có thể sẽ biến mất bởi sự tham lam, thiếu hiểu biết của con người. Họ đã viết bằng sự chân thành và mạnh mẽ của cảm xúc. Bằng sự chiêm nghiệm, từng trải thấm trong máu thịt từ thuở lọt lòng, với ngôn ngữ đặc trưng được chuyển dịch từ tư duy người dân tộc sang ngôn ngữ Việt tương đồng đã tạo nên tác phẩm hấp dẫn, độc đáo, góp phần làm phong phú văn nghệ nước nhà. Độc giả có thêm góc nhìn mới mang nét văn hóa đặc trưng dân tộc thiểu số. Mỗi tác phẩm tựa những thanh âm ngân vang như bày tỏ, thông báo cho bạn bè gần xa biết tới sự hiện diện của dân tộc mình, quê nhà mình với không gian văn hóa bao đời. Nơi non cao rừng thẳm đủ cả những vui buồn, người tốt, kẻ xấu, thấp hèn, cao thượng; những mối tình đẹp như nắng mai; những góc khuất, bất hạnh; đã được trình diễn với cảm xúc gắn bó máu thịt, mang vẻ đẹp riêng của văn hóa vùng miền. Vẻ đẹp nội tâm được khám phá khai thác tận cùng, không né tránh mang tâm thế tự tin của người sáng tạo đã giúp bạn đọc hiểu, yêu hơn những con người vùng đất ấy.
Khác với tiền bối, thế hệ nhà văn người dân tộc thiểu số sau năm 1975 có góc nhìn đời sống thực tế, sinh động, linh hoạt hơn. Họ viết bằng sự hiểu biết, cả với nhiệt thành đầy trách nhiệm. Số phận con người được khai thác sâu kỹ, chân thực. Tận cùng tốt đẹp, cả những xấu xa, bất công đâu đó, hay tập thể, cá nhân nào đó được lựa chọn, sáng tạo bằng hình thức nghệ thuật mới mẻ. Ít còn lối viết ám chỉ, né tránh hay tô hồng thiển cận. Là ngôn ngữ, hình ảnh trực diện, chất vấn, đồng hành, cảm thông với mất mát, thua thiệt, bất công, khổ đau con người. Lớp nhà văn tiên phong giai đoạn đó có: Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Vi Thị Kim Bình, Mã A Lềnh, Ngọc Phượng, Kim Nhất, Linh Nga Niek Đam, Hà Thị Cẩm Anh, Hữu Tiến, Hoàng Quảng Uyên, Hoàng Hữu Sang...; các nhà thơ Vương Trung, Vương Anh, Y Phương, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mai Liễu, Lò Cao Nhum, Phú Trạm Inrasara, Dương Thuấn, Dương Khâu Luông… Tác phẩm của họ được bạn đọc tiếp nhận, dư luận đánh giá cao bởi lối viết mới mang hơi thở nhịp sống đương đại. Bằng những cống hiến xuất sắc, một số tác giả đã được nhận giải thưởng uy tín trong nước, quốc tế. Đó thật sự là những nhà văn tiêu biểu, niềm tự hào của đồng bào dân tộc thiểu số và bạn đọc cả nước. Sự nỗ lực, cùng với nhạy cảm nắm bắt hơi thở cuộc sống của các cây bút đã ghi lại không khí thời đại với những biến động đi vào lịch sử, để hôm nay mỗi khi đọc tác phẩm của họ, lòng như lại được thức dậy những năm tháng ấy, như: Thung lũng đá rơi, Người trong ống, Đường về với mẹ chữ của Vi Hồng; Phòng tuyến Khau Liêu, Tên làng, Nói với con của Y Phương; Chiều biên giới, Người đẹp của Lò Ngân Sủn; Cây hai ngàn lá của Pờ Sảo Mìn; Cây xương rồng trên cát của Phú Trạm Inrasara; Con rắn xanh màu da trời của Mã A Lềnh; Trăng gần của Hữu Tiến; Vực thuồng luồng của Hoàng Hữu Sang; Trí thức tỉnh lẻ, Thầy giáo đại học của Hoàng Quảng Uyên; Cưỡi ngựa đi săn của Dương Thuấn…
Tiếp bước thế hệ làm rạng danh văn học dân tộc thiểu số miền núi, bước sang những năm đầu thế kỷ 21 xuất hiện lớp nhà văn trẻ người dân tộc thiểu số, được sinh ra, lớn lên trong những năm đầu đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, là những: Vi Thị Thu Đạm (Nùng), Nông Quốc Lập (Tày), Lục Mạnh Cường (Tày), Niê Thanh Mai (Ê Đê), Phạm Tú Anh (Mường), Phạm Tiến Triều (Mường), Lý Hữu Lương (Dao), Nông Quang Khiêm (Tày), Nguyễn Văn Luân (Nùng), Nông Hồng Cư (Tày), Triệu Hoàng Giang (Dao), Vàng A Giang (H’Mông), Lâu Văn Mua (H’Mông), Ngô Bá Hòa (Tày), Lý Thị Thảo (Nùng), Thèn Thị Hương (Nùng), Đinh Su Giang (Xơ Đăng), Phùng Hương Ly (Tày), Hoàng Thị Hiền (Tày), Hà Sương Thu (Nùng), Đàm Hải Yến (Tày), Muồng Hoàng Yến (Tày)… Nhà văn trẻ hôm nay luôn tự hào, vì đã được tiếp nguồn cảm hứng từ thế hệ nhà văn tiền bối. Thành tựu của tiền bối chính là tấm gương soi chiếu, khích lệ họ hướng tới, và đổi mới. Nhưng thực tế, lớp trẻ trưởng thành được như hôm nay chính là ở tài năng, sự đam mê, tự vận động, học hỏi và lựa chọn thông minh của mỗi cá nhân. Từ yêu cầu cấp thiết, phải sớm có kế hoạch bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ kế cận, gần hai mươi năm qua Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam đã liên tục mở trại sáng tác cho các tác giả trẻ người dân tộc thiểu số, cả với những tác giả người Kinh gắn bó với miền núi, viết về miền núi và đồng bào dân tộc.
Thành thông lệ, hằng năm mỗi khi tháng bảy đến, các cây bút trẻ người dân tộc thiểu số lại được triệu tập tham gia trại sáng tác tổ chức ở một địa phương nào đó. Cùng những tác giả dần trưởng thành, có thêm những cây bút mới. Trại sáng tác thực sự đã tạo cơ hội để người viết trẻ gặp gỡ, trao đổi. Trong các buổi tọa đàm họ không ngần ngại chỉ ra những ưu, nhược điểm về bố cục, chi tiết, ý tứ, câu chữ tác phẩm của nhau. Thẳng thắn ý kiến với nhau cần thiết phải bỏ đi, sửa chữa, hoặc viết lại để hoàn thiện theo cách hợp lý và tốt nhất. Những buổi tọa đàm thực sự đã như nguồn năng lượng tiếp thêm niềm hào hứng, tạo mối quan hệ thân thiện giữa những cây bút vùng miền. Dù có lúc tọa đàm không tránh khỏi bất đồng, căng thẳng nhưng tất cả đều hướng tới mục tiêu giúp người viết trẻ tiếp tục có bước đi vững hơn, tiến xa hơn trên con đường sáng tạo. Cũng là cơ hội để người viết bày tỏ chính kiến, hiểu hơn tác phẩm của bạn, của mình, nhận diện và thay đổi. Có thể chưa ngay lập tức đồng tình, nhưng sẽ là gợi nghĩ, ám ảnh, vỡ lẽ về sau. Trưởng thành từ những hoạt động như vậy có thể điểm tên một số tác giả. Thể loại tiểu thuyết có: Nông Quốc Lập, Chu Thanh Hương. Thơ: Hoàng Chiến Thắng, Phạm Tú Anh, Lý Hữu Lương, Phùng Hương Ly, Thèn Hương, Hoàng Thị Hiền, Ngô Bá Hòa…. Truyện ngắn: Niê Thanh Mai, Đinh Su Giang, Nông Quang Khiêm, Nguyễn Văn Luân, Lý A Kiều. Ký, tản văn: Nông Hồng Cư, Phùng Hải Yến, Phạm Tiến Triều…
Số người viết trẻ dân tộc thiểu số tham gia từ năm đầu mở trại (2005) tới nay có tới hơn hai trăm cây bút, nhưng hiện tại chỉ còn hơn hai chục người. Đa số đã trưởng thành, là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Hiện họ vẫn đang viết bằng tất cả lòng nhiệt tình và khiêm nhường, bằng sự nhạy cảm, tinh tế và hiểu biết của thế hệ thời công nghệ. Nội dung, hình thức nghệ thuật sáng tạo cũng đã khác lớp tiền bối. Họ rồi sẽ còn tiến xa với thành công mới, lớn hơn. Bởi thấy rõ tác phẩm của người viết trẻ dân tộc thiểu số, miền núi hôm nay vẫn còn nguyên mối liên kết bền chắc với gốc rễ văn hóa truyền thống trong từng chi tiết, câu chữ mang đặc trưng vùng miền. Đó là điều đáng mừng. Bởi chứng tỏ họ đã nhận ra, chỉ khi viết những gì mình thật sự hiểu biết về nó, đó mới là nguồn tạo nên tác phẩm độc đáo hấp dẫn. Nhưng chưa khỏi phân vân. Hình thức nghệ thuật tác phẩm của họ liệu đã thật sự mới, thật sự đủ vững cho hành trình đầy thử thách phía trước? Hay vẫn lối tập cổ, ảnh hưởng bởi những tác phẩm chỉ toàn chữ với chữ đầy chật lý trí, nhưng lại thiếu chỗ cho cảm xúc mà theo đòi như mốt mới của không ít người viết trẻ hôm nay? Văn xuôi cũng thấy có gì đó gờn gợn. Những truyện ngắn, tiểu thuyết viết ra kia liệu có bõ công, hay chỉ mất thời gian đầu tư? Bởi đọc thấy nhạt, thường thường vậy, như đã đọc ở đâu đó, ai đó viết rồi. Tất nhiên có trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng nếu đem so thấy kém hơn nhiều những gì đã từng đọc. Tác phẩm được viết, in ra sao chẳng khiến độc giả quan tâm, rơi vào im lặng và biến mất trong sự thờ ơ bạn đọc? Đã bao giờ ta tự hỏi, bạn đọc sao quay lưng. Thử hình dung, có hai người đối diện nhau, một người thao thao chuyện trên giời, dưới bể, người kia thì thờ ơ, vẻ mệt mỏi, buồn ngủ nữa. Rõ cái sự chán mà chưa thể bỏ đi. Bởi chuyện không hay, nghệ thuật chẳng có gì mới, không đáng quan tâm. Rặt viển vông dông dài. Không chán mới lạ.
Văn chương cũng vậy, đừng vội trách văn hóa đọc thời nay xuống cấp. Là những chuyện bạn đang viết có gì mới, hay vẫn cũ như bao năm? Những cũ kỹ ấy sao thu hút được bạn đọc. Sao không viết những gì mọi người quan tâm, là chuyện hôm nay, cuộc sống đang diễn ra hàng ngày. Có tích cực, cả những hạn chế tiêu cực nảy sinh như căn bệnh thời đại, liên quan hết thảy tới người lao động, đội ngũ trí thức, khoa học kỹ thuật, đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội… thấy rõ, còn ít tác phẩm văn học phản ánh sự vận động thời đại chúng ta đang sống. Với những tác giả, tác phẩm viết về đề tài dân tộc miền núi hôm nay còn thiếu vắng nhiều hơn. Có lẽ nào chúng ta thiếu vốn sống, hay những chuyển động chậm chạp, buồn tẻ nơi vùng cao chưa khiến người viết quan tâm? Đây là vấn đề cần xem lại. Bạn đọc không quay lưng với những tác phẩm hay. Có điều nếu không hay, không thuyết phục, bạn đọc sẽ không quan tâm. Người viết cần thay đổi cách nhìn, cách tiếp cận và phản ánh.
Để làm tốt được việc đó liên quan rất nhiều tới quan tâm của đội ngũ lý luận, phê bình. Sáng tác của các tác giả dân tộc thiểu số, miền núi năm mươi năm qua đã có đóng góp quan trọng cho văn học nước nhà. Mỗi tác phẩm đem đến cho bạn đọc vẻ đẹp riêng của tâm hồn tộc người, không gian văn hóa vùng miền. Nhưng thử hỏi ngần ấy năm đã có mấy ai viết về họ, giới thiệu họ cùng những tác phẩm được vinh danh. Có, nhưng ít. Lý luận phê bình văn học trước đây hiếm hoi có cố nhà văn dân tộc Nùng: Lâm Tiến. Trước ông có nhà văn Phong Lê, Hà Công Tài…, sau có Trần Thị Việt Trung, Phạm Quang Trung, Cao Thị Hảo, Đỗ Thị Thu Huyền, Lê Thị Bích Hồng và một số cây bút khác. Điểm danh có thể còn thiếu nhưng thấy rõ, số người viết chưa nhiều. Cả không nhiều tác phẩm viết về nhà văn dân tộc thiểu số. Đó là thực tế. Một thực tế chưa vui. Lẽ nào văn học dân tộc thiểu số miền núi còn nằm ngoài dòng chảy văn học Việt Nam. Ngoài Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, có lẽ chưa đơn vị nào kể cả Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức hội nghị, hội thảo hay tọa đàm về cá nhân hay chung cho văn học dân tộc thiểu số miền núi. Đó là không công bằng. Cần có bước đi cụ thể, thực hành cụ thể.
Viết về đề tài dân tộc thiểu số miền núi không phải độc quyền của các nhà văn dân tộc, các nhà văn đều có thể viết về nó. Thực tế nhiều tác phẩm của nhà văn người Kinh viết về đề tài dân tộc thiểu số rất thành công. Không những thành công về tác phẩm, họ còn là tấm gương tiêu biểu cho các nhà văn dân tộc học tập và noi theo. Đó là nhà văn: Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Ngọc Anh, Thu Bồn, Trung Trung Đỉnh… thế hệ nhà văn thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ; lớp sau có Hoàng Thế Sinh, Vũ Xuân Tửu, Nguyễn Trần Bé, Chu Minh Huệ, Nguyễn Thế Kỷ, Đỗ Bích Thúy, Đoàn Hữu Nam, Đinh Công Diệp… Họ thật sự đã hóa thân vào nhân vật, thấm đẫm tâm hồn, cốt cách người dân tộc miền núi. Mỗi tác phẩm được viết là tiếng nói đồng cảm sưởi ấm lòng người, được phổ biến sâu rộng, gợi cảm xúc gần gũi thân thiết, như một phần máu thịt của đồng bào. Lý luận phê bình không thể bỏ qua. Phải có hẳn chuyên đề hội thảo các tác phẩm viết về đề tài dân tộc thiểu số do người Kinh viết. Có thế mới thấu đáo, công bằng. Bởi những sáng tác của họ với mảng đề tài này là lớn, có giá trị. Một phần không thể thiếu của văn học dân tộc thiểu số, miền núi trước đây, ngày nay và mai sau.
Cao Duy Sơn
Báo Văn Nghệ số 29/2024