Những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nổi lên của lý thuyết phê bình phương Tây thế kỉ XX-XXI đối với đời sống văn hoá nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng: chủ nghĩa hậu hiện đại, thuyết lệch pha, phê bình nữ quyền, phê bình hậu thuộc địa, phê bình sinh thái, thuyết hậu nhân văn… Điều chúng ta nhìn thấy rõ nhất chính là sự ảnh hưởng, lan toả của các lý thuyết đương đại đã bổ sung, tạo ra nhiều cách đọc mới đối với các văn bản văn học; chú ý đến nhiều khía cạnh nổi bật khác của văn bản và soi chiếu tác phẩm từ mọi góc độ như một cách khắc phục những hạn chế của các lý thuyết cổ điển. Cuốn sách chuyên khảo Trải nghiệm Lý thuyết đương đại là một tuyển tập học thuật tập hợp 12 bài viết chuyên sâu, được thực hiện với sự nghiêm cẩn về mặt nghiên cứu và tư duy lý luận, trong số đó, có 6 bài đã từng được công bố trên các tạp chí và sách quốc tế uy tín.
![]() |
Sách chuyên khảo Trải nghiệm Lý thuyết đương đại -TS. Hoàng Tố Mai chủ biên - là tập hợp 12 bài viết chuyên sâu, trong số đó, có 6 bài đã từng được công bố trên các tạp chí và sách quốc tế uy tín. |
12 bài viết trong tuyển tập áp dụng những khung lý thuyết mới vào phân tích nhiều tác phẩm văn học của các tác giả thế kỉ XX: F. Kafka (“Cái nhìn phán xét của loài vật trong một số tác phẩm của Franz Kafka” của nhà nghiên cứu Hoàng Tố Mai), Ivan Bunin (“Nhạc tính trong văn xuôi Ivan Bunin” của nhà nghiên cứu Đỗ Thị Hường), R.K. Narayan (“Phê bình cách phân chia Đông Phương luận: Đặt cạnh nhau không gian trong nhà trong tác phẩm Căn phòng tối (1938) của R.K. Naryan và Người tung hứng (1900) của Rachilde” của nhà nghiên cứu Phạm Phương Chi), R. Tagore (“Vượt ra ngoài cộng đồng báo chí Ấn Độ Dương: tiếp nhận Rabindranath Tagore và tư tưởng chống thực dân ở Việt Nam” của nhà nghiên cứu Phạm Phương Chi) cùng những cây bút nổi bật ở Việt Nam như Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh và Phan Việt (“Tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn Bình Phương trong sự vận động của thơ Việt Nam đương đại”, “Sự mỏi mệt của phụ nữ đương đại: Những gợi ý từ Byung - Chul Han cho việc nghiên cứu giới ở Việt Nam” của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiếu). Không chỉ vậy, một số bài viết còn sử dụng những trào lưu lý thuyết đương đại để “đọc” lại những tác phẩm kinh điển (“Kịch Corneille trên tạp chí Nam Phong và việc xây dựng huyền thoại lập quốc” của nhà nghiên cứu Phùng Ngọc Kiên, “ ‘Nghiên cứu ảnh hưởng’ từ góc nhìn ‘Mỹ học mới’: Tìm hiểu về ảnh hưởng gián tiếp thông qua trường hợp Edgar Allen Poe - Charles Baudelaire – Hàn Mặc Tử” của nhà nghiên cứu Hoàng Tố Mai) hay những tác giả Việt Nam trong phong trào Thơ Mới như Xuân Diệu (“Văn xuôi Xuân Diệu những năm đầu thế kỷ XX và sự bắt nối vào dòng mạch văn học gay phương Tây” của nhà nghiên cứu Đặng Thị Thái Hà). Với phạm vi nghiên cứu phong phú, các tác giả bài viết đã lần lượt mổ xẻ từ những khía cạnh tưởng chừng đã bị lãng quên của các văn bản văn học quen thuộc đến những tác phẩm ít được chú ý của các tác giả nổi tiếng.
Nếu những tác phẩm của F. Kafka được dịch ở Việt Nam từ trước 1975 đến nay hầu hết chỉ được đề cập ở chủ đề mê cung và cảm thức phi lý thì bài viết mở đầu cho cuốn sách “Cái nhìn phán xét của loài vật trong một số tác phẩm của Franz Kafka” đã giới thiệu đến độc giả những tác phẩm ít nổi tiếng hơn của Kafka mà ông viết từ điểm nhìn của loài vật ngoại trừ Hoá thân: Bản báo cáo gửi Viện Hàn lâm, Những cuộc điều tra của một con chó, Một con thú lai chủng. Bài viết thể hiện sự kết hợp giữa các lĩnh vực nghiên cứu đương đại nổi bật như Nghiên cứu động vật (Animal Studies) và Phê bình sinh thái với sự lật lại về vai trò của con người và chủ trương lấy sinh thái làm trung tâm, bao gồm động vật. Ở đó, độc giả nhìn thấy sự cộng thông đặc biệt của Kafka đối với loài vật khi ông có thể hoá thân vào chính loài vật và chuyển dịch điểm nhìn từ “nhân vật người” sang “nhân vật thú” nhằm khắc hoạ hình ảnh con người dưới ánh nhìn của loài vật một cách hài hước. Kafka đã chỉ ra “ảo tưởng nực cười” của nhân loại khi loài người tưởng rằng mình có toàn quyền tác động và sắp xếp lại trật tự tự nhiên. Sự thách thức lại căn tính loài người thông qua phơi bày bản tính động vật trong mỗi người của Kafka đã cho thấy rõ nét khuynh hướng “giải cấu trúc” chính vị thế con người trong mối quan hệ với tự nhiên, đồng thời cũng đưa ra lời cảnh báo về mối nguy hại sẽ xảy đến với con người khi chúng ta can thiệp quá sâu vào đời sống tự nhiên. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Hoàng Tố Mai cũng đề cập đến những khía cạnh của vấn đề thuộc địa xuất hiện trong truyện ngắn của Kafka. Chúng ta không quên Kafka là một trong những tác giả nổi bật của nền văn chương dòng thứ, bởi thế nên mối quan tâm của ông cũng đặc biệt dành cho những kẻ bên lề, yếu thế. Bài viết chỉ ra quá trình thuần hoá con khỉ Red Peter gợi dẫn tới quá trình khai hoá của chính quyền thực dân tại các quốc gia thuộc địa và liên tưởng đến việc truyền bá giáo dục thuộc địa từ “mẫu quốc”. Từ đó, nhà nghiên cứu Hoàng Tố Mai đã khẳng định tính gợi mở và diễn giải đa dạng chính là đặc trưng quan trọng trong nghệ thuật Kafka. Những góc nhìn từ các lĩnh vực nghiên cứu mới đã bổ sung thêm những cách đọc sâu về Kafka, từ đó càng chứng minh tầm vóc tư tưởng của ông trên văn đàn thế giới.
Ngoài trào lưu về lý thuyết phê bình sinh thái và hậu thuộc địa, độc giả cũng bắt gặp trong tuyển tập này những lĩnh vực nghiên cứu gần gũi như các thảo luận xoay quanh nữ quyền luận. Bài viết của Tiến sĩ Trần Ngọc Hiếu “Sự mỏi mệt của phụ nữ đương đại: Những gợi ý từ Byung - Chul Han cho việc nghiên cứu giới ở Việt Nam” đã đi sâu phân tích trạng thái khủng hoảng tâm lý và những yếu tố khách quan giam cầm cảm xúc của người phụ nữ trong tình huống mang thai - sinh nở - làm mẹ. Hai truyện ngắn được tác giả lựa chọn để đọc sâu là Có con (sáng tác năm 1998) của Phan Thị Vàng Anh và Cách mạng baby (sáng tác năm 2009) của Phan Việt. Dù bối cảnh hai truyện ngắn này tưởng như thuộc về một thời đại đã có nhiều tân tiến đối với người phụ nữ, nhưng khi bị đặt vào tình huống mang thai, người phụ nữ vẫn vô thức chịu những kìm kẹp từ những quy chuẩn đạo đức và cả sự mắc kẹt trong “chủ nghĩa lạc quan tàn nhẫn” - một khái niệm của nhà nghiên cứu người Mỹ Lauren Berlant. Bà cho rằng chủ nghĩa lạc quan tàn nhẫn tồn tại khi thứ mà bạn khao khát lại chính là chướng ngại vật đối với sự phát triển của bạn. Những khả thể bất trắc, rủi ro trong tương lai được đặt ra liên tiếp đối với hai nhân vật Tuyền và Lan trong Có con và Cách mạng baby khi họ gieo vào mình ý nghĩ về mang thai, sinh nở. Những ý nghĩ phức tạp xoay quanh sự kiện này được tác giả Trần Ngọc Hiếu khái quát thành sự mắc kẹt của thế hệ những người phụ nữ hiện đại trong cái bẫy cảm xúc của xã hội tân tự do giam hãm chính họ. Byung-Chul Han với những gặp gỡ với Berlant trong khám phá về chủ nghĩa lạc quan tàn nhẫn, đã chỉ ra “chính trị tâm lý” chi phối tâm lý người phụ nữ trong một xã hội cạn kiệt, đặc biệt khi họ bị đặt vào những tình huống mang tính thiên chức như mang thai, sinh con. Bài viết khẳng định: “[…] mang thai - sinh nở - làm mẹ, dù trong một bối cảnh xã hội đã có nhiều đổi khác, vẫn cứ là câu chuyện gắn với nhiều trải nghiệm của phụ nữ cần được cảm thông nhiều hơn bởi những áp lực, những sự mắc kẹt mà họ trải qua có phần có thấy, ít kịch tính.”
Tuyển tập này không chỉ mang đến những cách đọc tác phẩm với khuynh hướng tiếp nhận liên ngành văn bản nghệ thuật từ những khung lý thuyết phương Tây mà còn mang đến kĩ năng phân tích tác phẩm chú trọng vào thi pháp văn chương của chính tác phẩm đó. Bài viết của tác giả Đỗ Thị Hường “Nhạc tính trong văn xuôi Ivan Bunin” đã khái quát phong cách văn xuôi trữ tình mang “tư tưởng của âm thanh” kết hợp với ngôn từ và tâm trạng đã tạo ra tính thi ca đậm đặc trong các sáng tác văn xuôi của I.Bunin. Trong đó, hai thủ pháp chính được Bunin sử dụng chính là phép điệp tạo nhạc tính và khuynh hướng xen thơ, nhạc vào lời văn. Tuyển tập cũng giới thiệu bài viết áp dụng cách đọc từ thi pháp nghệ thuật qua cái nhìn so sánh hai thiên tài thi ca của Trung Quốc và Việt Nam (Lý Hạ - Hàn Mặc Tử) của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thuý Hạnh: “Lý Hạ - Hàn Mặc tử: Kiểu nhà thơ thiên tài bệnh tật và những tương đồng về thi pháp”.
Với những lý thuyết đương đại nổi bật, nội dung phong phú cùng các tác phẩm văn học nổi tiếng; tuyển tập không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu mà còn cung cấp cho độc giả chiều sâu tri thức của những khuynh hướng tiếp cận, phân tích tác phẩm văn học; mang đến những kĩ năng “đọc” tác phẩm từ góc nhìn liên văn bản. Cuốn sách không chỉ là tài liệu tham chiếu cho các nhà nghiên cứu mà còn tạo điều kiện cho độc giả trẻ tham gia vào những hình thức tiếp nhận văn học mới, không còn đơn tuyến mà mang tính liên ngành, phản biện và cá nhân hoá hơn.