Văn hóa nghệ thuật

Đổi mới tư duy sáng tác và quản lý để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam

TS. Ngô Phương Lan
Điện ảnh 08:00 | 04/06/2025
Baovannghe.vn - Tư duy của người sáng tác quyết định tầm nhìn thế giới, nhận thức về cuộc sống và những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy, tư duy liên quan trực tiếp đến tính hiện đại của tác phẩm.
aa

Kết hợp tính dân tộc và tính hiện đại để đổi mới tư duy sáng tác

Trong thế giới toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập sâu rộng ngày nay, mọi dân tộc muốn phát triển đều không thể đứng tách riêng một mình mà phải có mối quan hệ hợp tác khu vực và quốc tế. Chính vì vậy mà cuộc sống mỗi dân tộc cần có sự tiếp cận, bắt nhịp với cuộc sống của cộng đồng quốc tế, phù hợp với tinh thần thời đại, nhưng một dân tộc phải luôn gìn giữ và phát huy tính dân tộc - bản sắc văn hóa thì mới không xảy ra nguy cơ “tự đánh mất mình”.

Điện ảnh là ngành nghệ thuật có khả năng phổ biến nhanh trong phạm vi rộng lớn, theo đó, tác phẩm điện ảnh thành công luôn không giới hạn trong biên giới quốc gia. Điều này cũng có nghĩa một tác phẩm chỉ thành công khi nó chuyên chở được những giá trị, bản sắc dân tộc đến với thế giới hiện đại. Bởi vậy, nếu xác định xây dựng hệ giá trị điện ảnh kết hợp hài hòa tính dân tộc và tính hiện đại thì có lẽ điện ảnh Việt sẽ vững vàng tiến xa.

Tính dân tộc chứa đựng cái “gốc” tạo nên những nét riêng - hay bản sắc - của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người. Tính dân tộc chứa đựng cả bản sắc văn hóa tinh tuý lẫn những nét tiêu cực trong phong tục, tập quán, lối sống, tính cách... được tạo nên bởi hoàn cảnh tự nhiên, lịch sử hình thành và tồn tại của một dân tộc. Như vậy, tính dân tộc bao hàm truyền thống và bản sắc văn hóa của một dân tộc trong quá trình phát triển.

Xác định tính dân tộc trong điện ảnh cần được nhìn nhận trên hai khía cạnh là tự phát (nhà làm phim phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân theo suy nghĩ và tình cảm xuất phát từ “gen” dân tộc của mình) và tự giác (chủ động đưa tinh thần dân tộc vào phim nhằm tạo những giá trị cao về nội dung và nghệ thuật). Phát huy tính dân tộc trong điện ảnh Việt Nam phù hợp với nhiệm vụ “xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc”. Tác phẩm điện ảnh mang tính dân tộc khi nó thể hiện đậm nét những đặc điểm nổi bật nhất, bản chất tập trung nhất của con người và xã hội Việt Nam bằng những hình tượng, thủ pháp và ngôn ngữ điện ảnh độc đáo nhưng phù hợp với tâm hồn và tình cảm người Việt Nam.

Tính hiện đại trong lịch sử gắn với sự phát triển của thời đại công nghiệp cùng tiến bộ khoa học kỹ thuật và tư tưởng hợp lý hóa trong sản xuất, dẫn đến sự giải phóng tư duy và hành động con người khỏi nếp sống cũ trong xã hội nông nghiệp. Trong văn học nghệ thuật cần phân biệt tính hiện đại với chủ nghĩa hiện đại - một trào lưu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đổi mới về quan điểm và phương pháp sáng tác theo xu hướng thoát ly thực tế cuộc sống... Tính hiện đại là một phẩm chất của tác phẩm văn học nghệ thuật phản ánh đúng tinh thần thời đại theo xu thế đi lên của lịch sử. Tính hiện đại có ý nghĩa tương đối, vì có những yếu tố là xưa cũ, cổ truyền của dân tộc này nhưng lại là mới, là hiện đại đối với dân tộc khác.

Đề cập đến tính hiện đại trong điện ảnh, cần phân biệt tính hiện đại trong nghệ thuật điện ảnh với sự hiện đại của bản thân loại hình điện ảnh - một ngành nghệ thuật tổng hợp, cũng là ngành công nghiệp sản xuất trên cơ sở khoa học kỹ thuật hiện đại. Tính hiện đại của tác phẩm điện ảnh được tạo nên từ tư duy của nhà làm phim phản ánh đúng tinh thần thời đại theo xu thế phát triển của xã hội (nội dung tác phẩm), từ những khám phá độc đáo, sáng tạo của họ về ngôn ngữ điện ảnh (hình thức thể hiện), cùng với phương tiện kỹ thuật và kỹ xảo tiên tiến để chuyển tải những yếu tố trên lên màn ảnh thật hiệu quả. Các nhà điện ảnh chân chính thường hướng đến mục tiêu phản ánh những tư tưởng tiến bộ mang tinh thần thời đại, tìm tòi và sáng tạo ra cái mới (mới trong tư duy sáng tác và mới trong hình thức thể hiện). Mục tiêu này liên quan mật thiết với tính hiện đại của tác phẩm điện ảnh. Tính hiện đại cần phát huy trong điện ảnh Việt Nam rất gần với khái niệm tính chất tiên tiến của văn hóa Việt Nam, là một giá trị không thể thay thế trong hệ giá trị điện ảnh Việt.

Đổi mới tư duy sáng tác và quản lý để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam
Sách "Phác thảo điện ảnh Việt Nam thời đổi mới và hội nhập" của TS Ngô Phương Lan. Sách do Nxb Hội Nhà văn Việt Nam phát hành.

Tuy nhiên, nếu cắt rời tính dân tộc và tính hiện đại như hai thực thể riêng biệt thì khó có thể tạo nên một hệ giá trị thực sự, có sức chinh phục và sức lan tỏa. Nghĩa là chỉ khi kết hợp hài hòa tính dân tộc và tính hiện đại thì tác phẩm mới trở thành một “cơ thể sống” vừa có chiều sâu, đi vào tâm can con người lại vừa độc đáo, mới mẻ. Để xây dựng hệ giá trị điện ảnh từ sự kết hợp hài hòa tính dân tộc và tính hiện đại, nên chăng “thể nghiệm” một số hướng đi như sau.

Thẩm thấu cội nguồn dân tộc để soi vào cuộc sống hôm nay

Xu thế toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thời đại. Vấn đề gìn giữ và phát huy truyền thống, bản sắc dân tộc trở nên quan trọng là điều đã rõ ràng. Một nền điện ảnh muốn tìm được vị trí của mình trên trường quốc tế cần phải có những tác phẩm đậm màu sắc dân tộc. Màu sắc dân tộc có đủ sức thuyết phục hay không phụ thuộc vào bộ phim có phản ánh được những vấn đề cốt lõi của xã hội, có khơi được đến tận cùng bản chất của cuộc sống hay không?

Truyền thống dân tộc không phải là khái niệm trừu tượng mà tồn tại (với những mức độ đậm nhạt khác nhau) trong phong tục tập quán, trong quan niệm về đạo đức, cách ứng xử và các mối quan hệ xã hội, trong nếp sống, tâm hồn, tình cảm con người... Đó là nền tảng tinh thần của một dân tộc.

Cuộc sống hôm nay một mặt thừa hưởng nền tảng tinh thần của truyền thống dân tộc, mặt khác được phát triển phù hợp với bối cảnh xã hội hiện đại của một đất nước đang từng ngày từng giờ đổi mới và đi lên. Có nhiều điểm đồng thuận giữa truyền thống và cuộc sống hiện đại. Đây là trường hợp lý tưởng nhất cho việc tiếp thu và phát huy truyền thống trong cuộc sống hôm nay. Có những “nếp cũ” từng là chuẩn giá trị trong xã hội thuần nông không còn phù hợp, thậm chí cản trở bước đi lên của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là lúc cần có sự lựa chọn tỉnh táo và sáng suốt để tiếp thu những điểm phù hợp, khắc phục những gì lạc hậu và lỗi thời. Ngược lại, có những trường hợp chạy theo cái gọi là “hiện đại”, “thời thượng” trong cách sống, trong quan hệ ứng xử... mà phá vỡ những giá trị truyền thống tốt đẹp. Đối với trường hợp này cần có sự phân tích, phê phán thích đáng những biểu hiện lệch lạc, nông cạn, thực dụng... sẽ dẫn đến nguy cơ mất gốc.

Điện ảnh cần khái quát những vấn đề xã hội gay gắt của Việt Nam hôm nay - một đất nước đang phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa trên cơ sở nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước nhưng còn ngổn ngang nhiều việc phải giải quyết. Đó là sự cảnh tỉnh trước những thay đổi lệch lạc về nếp sống của một xã hội nông nghiệp nặng về các mối quan hệ mà “nhẹ” về luật pháp, dẫn đến sự hoành hành của nạn tham nhũng, của các tệ nạn xã hội. Đó là sự bảo vệ công bằng xã hội, đạo lý dân tộc, phẩm chất đạo đức và nề nếp gia phong trước cơn lốc của cách sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, tha hóa nhân phẩm từ cả ở những người có địa vị thấp kém lẫn những vị tai to mặt lớn... Đây chính là ngọn nguồn để các nhà làm phim khơi dòng chảy vô tận của tính dân tộc trong mối liên hệ hữu cơ với tính hiện đại.

Nhà sáng tác điện ảnh cần nhìn thấu từ truyền thống dân tộc đến bản chất cuộc sống hôm nay bởi các hình tượng nghệ thuật đỉnh cao trong những bộ phim thành công đều được bắt nguồn từ nền tảng tinh thần dân tộc để khái quát những vấn đề, những số phận phản ánh bản chất của hiện thực cuộc sống.

Đã có những bộ phim Việt Nam kết hợp thành công nét truyền thống trong sự hài hoà với hiện thực cuộc sống hôm nay, nhưng số phim ấy không phải là nhiều. Ngay cả trong những bộ phim này, sự thể hiện tính dân tộc, màu sắc Việt Nam dường như cũng tự phát, xuất phát từ xúc cảm tự nhiên của nhà sáng tác chứ không phải từ sự đúc kết công phu và toàn diện. Hiện thực cuộc sống trong phim chưa có sức thuyết phục mạnh mẽ, chưa đạt tầm khái quát cao bởi nhà sáng tác còn thiếu vốn sống, chưa thực sự lăn lộn, nếm trải cuộc sống của nhân dân - hay chí ít là những đối tượng anh ta thể hiện trong phim.

Các nhà làm phim Việt Nam cần có sự chủ động đào xới, tìm hiểu truyền thống dân tộc để có cái nhìn xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Họ cũng cần có sự thâm nhập thực tế nghiêm túc để nắm bắt những vấn đề xã hội, thấu hiểu những nỗi niềm, tình cảm và khát vọng của người dân để từ đó đúc kết, khái quát hiện thực bằng những hình tượng màn ảnh sống động và có sức thuyết phục cao.

Đổi mới tư duy sáng tác phù hợp với tinh thần thời đại

Tư duy của người sáng tác quyết định tầm nhìn thế giới, nhận thức về cuộc sống và những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy, tư duy liên quan trực tiếp đến tính hiện đại của tác phẩm.

Lấy ví dụ, thập kỷ thế giới Văn hóa vì sự phát triển (1987-1997) do Liên hiệp quốc và tổ chức UNESCO khởi xướng đã coi văn hóa “vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển”. Tinh thần khoan dung (khát vọng hướng tới một thế giới tiến bộ, nhân ái, chung sống hài hoà, chấp nhận sự khác biệt của các nền văn hóa...), xu hướng văn hóa hoà bình (theo đuổi nguyên tắc “đối thoại chứ không đối đầu”) chứng tỏ sự tiến bộ và sức mạnh của văn hóa. Tinh thần khoan dung rất phù hợp với nét đặc trưng của tính dân tộc Việt Nam là tinh thần nhân đạo. Xu thế văn hóa hoà bình rất gần gũi với truyền thống yêu chuộng hoà bình, khát khao cuộc sống độc lập của người Việt Nam.

Trong bối cảnh thế giới hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, vấn đề phát huy bản sắc dân tộc để bảo vệ và tận dụng sức mạnh nội lực, đồng thời lựa chọn hướng đi phù hợp để phát triển theo xu thế hiện đại và tiến bộ của nhân loại là mục tiêu của Việt Nam. Nhưng cũng cần thấy rằng cùng với những mặt tích cực thì các xu hướng trên cũng có nhiều mặt trái mà phần thiệt thòi (trong kinh tế, thương mại, văn hóa xã hội...) lại rơi vào những nước nghèo, những nước thuộc thế giới thứ ba như Việt Nam. Chính vì vậy mà điện ảnh cần phản ánh với một tư duy cập nhật những vấn đề mang tính toàn cầu như đấu tranh vì quyền bình đẳng giữa các dân tộc, lên án sự bất công giàu nghèo, chống chiến tranh, xung đột sắc tộc và tôn giáo, chống bạo lực và khủng bố, đấu tranh với những tệ nạn xã hội và căn bệnh thế kỷ AIDS, bảo vệ môi trường sinh thái... Và bây giờ, một thảm họa đang làm đảo lộn cuộc sống của cả thế giới là sự hoành hành của đại dịch Covid-19 chưa có hồi kết.

Mặt khác, cần nhận thức rõ rằng cho dù phản ánh những vấn đề chung mang tính toàn cầu vẫn phải xuất phát từ chỗ đứng và góc nhìn của dân tộc mình, thông qua hiện thực xã hội mình thì tác phẩm mới có sức sống, sức thuyết phục. Điều này cũng phù hợp với chủ trương của UNESCO khuyến khích sự đa dạng văn hóa của các dân tộc.

Tư duy của người sáng tác điện ảnh chỉ có thể bắt nhịp được với thời đại khi hấp thụ được tinh thần tiến bộ của văn hóa thế giới. Dân tộc Việt Nam cần được đặt trong mối liên hệ với khu vực và quốc tế. Không thể chỉ “dương dương tự đắc” với hào quang quá khứ mà phải thấy những hạn chế, những thử thách dân tộc mình đang phải đối mặt. Con người Việt Nam cần được đặt trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Những phẩm chất truyền thống nào anh cần phải gìn giữ và phát huy, những phẩm chất nào của xã hội hiện đại anh thiếu hụt và cần vượt lên bản thân mình để đạt được.

Đã có giai đoạn trong quá khứ các nhà điện ảnh Việt Nam nặng về lối tư duy một chiều: chỉ khẳng định, chỉ cổ động, chỉ quan tâm đến tính giáo dục của bộ phim. Tư duy hiện đại cần một sự đa diện, sâu sắc và hài hoà. Biết khẳng định cái sáng trong sự tương phản với bóng tối nhưng cũng cần phác hoạ cả những khoảng “tranh tối tranh sáng” một cách có ý nghĩa. Vừa cổ vũ cái tốt nhưng cũng cần biết phê phán đến tận gốc rễ nơi những cái xấu nảy mầm. Cần tạo một sự hài hoà giữa tính giáo dục của tác phẩm (cả khía cạnh đạo đức lẫn khía cạnh nhận thức) với tính thẩm mỹ và tính giải trí. Chính tính thẩm mỹ và tính giải trí sẽ làm cho phim Việt Nam có sức hấp dẫn và thuyết phục, tránh được “căn bệnh” khô cứng hay áp đặt vẫn tồn tại lâu nay.

Ngược lại, nhiều bộ phim thời nay bị thị trường hóa, nhà làm phim chạy theo những thể loại phim dễ thu hút khách nhất là hành động, kinh dị, hài, tình cảm, càng giật gân, “nguy hiểm”, càng “sốc và sex” thì càng dễ ăn khách. Điều này dẫn tới nhiều bộ phim xa rời cuộc sống, lấy con người và đời sống Việt Nam là cái cớ để chở những câu chuyện giật gân hoặc tình ái ướt át. Một vấn nạn là truyền thống kiểu thị trường “góp công” làm lệch chuẩn đánh giá tác phẩm trên báo và các trang mạng, dùng mọi chiêu trò để PR phim. Với “dòng” phim này, nói đến tính dân tộc và tính hiện đại có vẻ là điều xa lạ, thậm chí xa xỉ! Thành công của loại phim này là may ra thì kiếm được mớ tiền bán vé và ngoi ngóp sống vài tuần ở rạp, để rồi sau này chẳng còn ai nhắc, ai nhớ đến nó.

Các tác phẩm điện ảnh muốn có giá trị đích thực và sống vượt thời gian, trước hết phải có lượng thông tin bổ ích cho khán giả. Cao hơn một bước, tác phẩm cần phải là sự khái quát cuộc sống, khái quát các vấn đề xã hội và những điều mà con người đang quan tâm. Người Việt Nam thiên về cách tư duy cụ thể mà thiếu sức khái quát. Các nhà làm phim cần phải nâng tầm nhận thức và mở rộng tầm nhìn mới có thể bắt nhịp được với thời đại. Khi tác phẩm không dừng lại ở sự miêu tả hiện tượng cụ thể mà đi đến sự khái quát hiện thực thì tác phẩm ấy mới có sức lan toả rộng lớn và sức sống bền lâu. Hơn nữa, tính dự báo của tác phẩm - điều mà những bộ phim “tầm cỡ quốc tế” thường đạt được - bắt nguồn từ sức khái quát cao độ cuộc sống bằng màu sắc của dân tộc mình.

Các mảng đề tài rộng lớn như quá khứ, hiện tại và tương lai đều có thể tạo nên tính hiện đại trong tác phẩm điện ảnh. Nhưng tư duy của người sáng tác mới quyết định được sự hiện đại hay lỗi thời trong nội dung phim. Đối với đề tài quá khứ cần có sự tái hiện theo cách nhìn mới của ngày hôm nay, sâu sắc và công bằng. Các nhà điện ảnh Việt Nam cần “trả nợ quá khứ gần” bằng những bộ phim ngang tầm với sự vĩ đại của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ đất nước. “Quá khứ xa” về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc còn là sự thách đố lớn, không biết bao giờ nhà làm phim mới có khả năng và điều kiện để đưa lên màn ảnh.

Đối với đề tài đương đại cần có sự nhập cuộc thực sự mới có thể phản ánh cuộc sống một cách nhạy bén và khái quát các vấn đề xã hội cả về chiều rộng và chiều sâu. Những thử thách đối với toàn xã hội nói chung, mỗi gia đình và mỗi con người Việt Nam nói riêng đang chuyển đổi trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa từ một đất nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu chứa đựng vô vàn những vấn đề, xung đột có thể chuyển tải vào phim. Các mối quan hệ, cách sống, tình yêu, mơ ước, nhu cầu và khát vọng... của con người thời công nghiệp hóa - hiện đại hóa và công nghệ số khác xa thời bao cấp và đó chính là chất liệu đa dạng để tạo nên màu sắc hiện đại cho phim.

Tính hiện đại cũng được tạo nên từ những dự báo và hình dung của nhà làm phim về tương lai của đất nước và con người Việt Nam, nhưng không phải là sự mơ tưởng viển vông, hão huyền mà cần xuất phát từ cái nền hiện thực. Đây là mảnh đất trống mà các nhà làm phim Việt Nam hầu như chưa khai phá.

Phim Việt Nam cho thấy trí tưởng tượng của các nhà sáng tác điện ảnh chưa phong phú. Đành rằng chất thơ, chất trữ tình nhiều bộ phim phần nào khiến cho cảm xúc của người xem được bay bổng, nhưng chưa có bộ phim nào cho người xem được thoả trí tưởng tượng. Đương nhiên điều kiện vật chất và cơ sở kỹ thuật là rào cản rất lớn việc “màn ảnh hóa” trí tưởng tượng, nhưng điều quan trọng là nhà sáng tác điện ảnh cần phải tập cách tư duy hiện đại: thả cho trí tưởng tượng bay bổng trong những tình huống mà bản thân anh ta có thể “nhìn thấy - nghe thấy” và diễn tả được cho người khác. Nghĩa là trước tiên bản thân nhà làm phim phải có ý tưởng và phải “hình ảnh hóa trong đầu” ý tưởng đó của mình.

Nói tóm lại, đổi mới tư duy sáng tác để bắt nhịp với thời đại là cơ sở để đưa tính hiện đại vào tác phẩm điện ảnh.

Đổi mới tư duy sáng tác và quản lý để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam
Cảnh trong phim "Hành trình tình yêu" do Netflix sản xuất quảng bá vẻ đẹp Việt Nam

Quốc tế hóa những vấn đề mang tính dân tộc, dân tộc hóa những vấn đề của nhân loại

Một nhà sáng tác chỉ có thể dốc hết tâm lực và nhiệt huyết vào tác phẩm khi anh ta sáng tạo trên cơ sở những gì gần gũi, thân thuộc, máu thịt đối với bản thân mình. Điều này có nghĩa là những câu chuyện, những vấn đề của bản thân, của gia đình, của cộng đồng xung quanh...- nói khái quát là những vấn đề mang tính dân tộc - là mảnh đất màu mỡ nhất để nhà sáng tác khai thác và sáng tạo. Đặc biệt, tác phẩm điện ảnh là nơi mọi câu chuyện, mọi số phận, mọi ý tưởng được diễn tả cụ thể nhất bằng hình ảnh và âm thanh trên màn ảnh thì nhà làm phim dễ có điều kiện nhất khi tái tạo những gì quan hệ đến bản thân mình, dân tộc mình.

Nhưng có một mâu thuẫn là nhiều bộ phim đề cập đến những câu chuyện, những vấn đề đáng quan tâm và dễ cảm thông đối với dân tộc này lại khiến người xem ở quốc gia khác, dân tộc khác dửng dưng, không quan tâm, không chấp nhận... Nguyên nhân của “độ vênh” trong cách tiếp nhận tác phẩm điện ảnh này là do những vấn đề đặt ra trong phim mới mang tính cá biệt của một nhóm người, một dân tộc mà chưa đủ sức thuyết phục mọi người tin và cảm thông. Lấy một ví dụ: dân tộc Việt Nam nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu đánh bại hai đế quốc hùng mạnh là Pháp và Mỹ là một thực tế lịch sử không gì lay chuyển được. Thắng lợi phi thường của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh giữ nước khẳng định dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Nhưng thực tế đáng buồn là rất nhiều bộ phim nêu cao chủ nghĩa anh hùng của ta không thuyết phục được người xem nước ngoài mà bị họ “liệt” vào loại phim tuyên truyền.

Chính vì vậy mà các nhà làm phim cần khai thác sâu sắc và ấn tượng bí quyết để dân tộc ta làm được những điều phi thường, để trở thành dân tộc anh hùng. Đó là biết bao sự hy sinh bình dị của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi xóm làng... suốt chặng đường ba mươi năm trường kỳ kháng chiến. Trường hợp phim Cánh đồng hoangBao giờ cho đến tháng mười chinh phục mạnh mẽ người xem nước ngoài bởi các nhân vật được khắc hoạ như những con người bằng xương bằng thịt, họ có những tình cảm và khát vọng như bất cứ một con người nào sống trên trái đất này. Từ đó, sự hy sinh của họ có sức nặng và khiến người xem tin vào cuộc sống và chiến đấu đầy nghịch lý của dân tộc Việt Nam: cái bình dị tạo nên cái phi thường; chủ nghĩa anh hùng tiềm ẩn trong cuộc sống đời thường của mỗi người dân. Đạt được hiệu quả này có nghĩa là phim đã “quốc tế hóa” thành công chủ đề Việt Nam. Theo cách triển khai này thì các nhà làm phim Việt Nam còn có thể tái hiện và “quốc tế hóa” biết bao vấn đề, câu chuyện, số phận suốt những năm tháng đầy biến động lịch sử của dân tộc ta.

Song song với việc “quốc tế hóa vấn đề dân tộc”, các nhà làm phim cần đổi mới tư duy sáng tác như đã bàn ở trên, nhằm tạo cho tác phẩm điện ảnh một sự cập nhật, bắt nhịp với xu thế phát triển của thời đại. Những vấn đề mang tính toàn cầu như lên án chiến tranh và khủng bố, cảnh báo các hiểm hoạ đe doạ cuộc sống của loài người như sự phá huỷ môi sinh, phấn đấu vì một thế giới hoà bình, vì sự bình đẳng về quyền con người, vì một hành tinh xanh... cần có sự đồng vọng trong các bộ phim Việt Nam. Điều quan trọng là phải có sự chắt lọc và thẩm thấu các vấn đề qua cuộc sống và con người trong xã hội Việt Nam chứ không phải là những sự vay mượn, gán ghép những câu chuyện, những số phận xa lạ vào phim cốt cho có vẻ hiện đại. Nghĩa mang tính quốc tế, là cần một sự “dân tộc hóa” thực sự những vấn đề mang tính nhân loại trong phim chứ không cần một “lớp váng” lai căng từ bên ngoài!

Trong hai thập kỷ gần đây, nhiều nhà làm phim gốc Việt ở nước ngoài về Việt Nam sinh sống và dần trở thành một lực lượng sáng tác không thể phủ nhận của điện ảnh Việt Nam. Có thể kể đến những cái tên như Lưu Huỳnh (từ đầu những năm 2000) rồi Victor Vũ, Charlie Nguyễn, Dustin Nguyễn, Ngô Thanh Vân, Lê Văn Kiệt... với những bộ phim “bom tấn” của điện ảnh Việt. Họ có thuận lợi là tiếp thu được kỹ năng làm phim tiên tiến, bản thân họ lại có sự gián cách với cuộc sống Việt Nam nên có thể “quốc tế hóa” màu sắc Việt Nam dễ dàng hơn. Đồng thời, họ là những người trực tiếp tiếp xúc với những nền văn hóa khác, trực tiếp trải nghiệm nhiều vấn đề của xã hội khác mà những nhà làm phim Việt Nam ở trong nước không có điều kiện tiếp cận. Điểm mạnh nữa của họ là sự tận dụng hiệu quả hình ảnh, âm thanh, montage... để tạo những hình tượng màn ảnh gây ấn tượng. Từ đó, tác phẩm của họ dễ có khả năng đáp ứng nhu cầu và bắt trúng thi hiếu của khán giả. Điểm yếu của các nhà làm phim Việt sống ở nước ngoài khi khai thác đề tài Việt Nam là sự phiến diện trong cách nhìn, sự hạn chế về hiểu biết thực tế cuộc sống xã hội Việt Nam và sự thiếu hụt trong việc thẩm thấu vào cội nguồn truyền thống dân tộc.

Ngược lại, các đạo diễn ở trong nước gắn bó máu thịt với xã hội Việt Nam, cuộc sống của họ được “sinh sôi nảy nở” từ cội nguồn dân tộc. Điều họ đang cần bổ khuyết là hướng đi và cách làm để có thể chuyển tải lên màn ảnh một cách sâu sắc, tinh tế, hấp dẫn và thuyết phục nhất hình ảnh Việt Nam.

Có thể kết luận, nếu chỉ quan tâm đến tính hiện đại mà bỏ qua tính dân tộc thì điện ảnh của chúng ta sẽ không thể hiện được những suy nghĩ, tình cảm - những gì là tâm hồn, là máu thịt của nhân dân và không tìm được sự đồng cảm của họ. Điện ảnh sẽ mất bản sắc, không có diện mạo riêng và không có gì khiến khán giả nước ngoài quan tâm. Tuy nhiên, điều này cũng không dễ xảy ra với điện ảnh Việt Nam - một nền điện ảnh luôn gắn liền với mỗi bước đi của dân tộc.

Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến tính dân tộc mà bỏ qua tính hiện đại thì nhà sáng tác sẽ đi theo lối mòn, không phát huy được sự sáng tạo, không cập nhật được với thời đại nên tác phẩm sẽ không đáp ứng được nhu cầu xã hội, không thu hút được sự quan tâm của khán giả cả ở trong và ngoài nước.

Song song với đổi mới sáng tác, cần đổi mới tư duy quản lý

Điện ảnh là ngành từng bước thực hiện hiệu quả chủ trương và các Nghị quyết của Đảng. Đó là: Hội nghị lần thứ V BCH Trung ương Đảng khóa VIII (1998) thảo luận và ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết 33 BCH TƯ Đảng Khóa XI với nhiệm vụ “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”, trong đó “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới”; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhằm mục tiêu: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Đây chính là chìa khóa để đưa đất nước phát triển bền vững.

Đổi mới tư duy quản lý trong điện ảnh được khẳng định qua nhiều văn bản định hướng: “Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” ngày 11/11/2013; “Quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” ngày 25/1/2014 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Luật Điện ảnh số 05/2022/QH15 của Quốc hội ngày 15/6/2022.

Đặc biệt, với Luật Điện ảnh số 05/QH15 năm 2022 có hiệu lực từ ngày 01/1/2023, điện ảnh Việt Nam sẽ bước vào một thời kỳ hoạt động với hành lang pháp lý có nhiều điểm mới. Nói cụ thể hơn, Luật Điện ảnh đem đến cơ hội mới cho sự phát triển công nghiệp điện ảnh Việt Nam.

Cách đây gần chục năm, thuật ngữ “Công nghiệp điện ảnh” chưa thông dụng ở Việt Nam. Người ta hay dùng các cụm từ “nền điện ảnh Việt Nam”, hay “ngành điện ảnh Việt Nam”. Khi nói về một bộ phim, người ta cũng thường dùng một thuật ngữ là “tác phẩm điện ảnh” chứ không mấy khi xem đó là một sản phẩm của công nghiệp điện ảnh, càng không coi nó là một thứ hàng hóa đặc biệt. Luật Điện ảnh 2006 xây dựng chủ yếu trên cơ sở quan niệm điện ảnh là ngành nghệ thuật. Thực tế, điện ảnh vừa là ngành nghệ thuật tổng hợp, vừa là ngành công nghiệp. Công nghiệp điện ảnh là xu thế phát triển tất yếu ở các nước, là bộ phận quan trọng của công nghiệp văn hóa. Bởi vậy, thật mừng khi Luật Điện ảnh 2022 đã đưa khái niệm “Công nghiệp điện ảnh” vào phần quan trọng là giải thích từ ngữ, đồng thời có nhiều điểm mới để đạt được mục tiêu cốt lõi là phát triển công nghiệp điện ảnh.

Nét mới trong Luật Điện ảnh sửa đổi thể hiện trong nguyên tắc hoạt động điện ảnh, chính sách của nhà nước phát triển điện ảnh. Luật xác định các tổ chức, cá nhân chung tay phát triển công nghiệp điện ảnh phù hợp quy luật thị trường và điều ước quốc tế, “Nhà nước có chính sách huy động các nguồn lực, thực hiện các biện pháp bảo đảm môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, phát triển thị trường điện ảnh”. Nguyên tắc này nếu được thực hiện một cách xuyên suốt thì sẽ có cơ hội huy động các nguồn nhân lực, vật lực của xã hội để phát triển công nghiệp điện ảnh.

Tư duy quản lý đổi mới khi Luật quy định phát triển công nghiệp điện ảnh được gắn liền với phát triển thị trường điện ảnh để tái sản xuất phim, tạo các sản phẩm điện ảnh - hàng hóa đặc biệt - vừa có giá trị tư tưởng, thẩm mỹ, đáp ứng nhu cầu giải trí lành mạnh vừa có hiệu quả kinh tế xã hội. Theo đó, nói phát triển công nghiệp điện ảnh Việt, trong đó các khâu quan trọng nhất là sáng tạo và sản xuất phim; phát hành, phổ biến phim và phát triển thị trường điện ảnh; quảng bá, xúc tiến phát triển công nghiệp điện ảnh.

Việc hợp tác sản xuất phim và cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho nước ngoài cũng có sự đổi mới đáng kể. Các hãng phim nước ngoài vào quay phim tại Việt Nam chỉ nộp tóm tắt kịch bản và phần chi tiết kịch bản quay tại Việt Nam thay vì nộp toàn bộ kịch bản như quy định cũ (khi quay tại Việt Nam một phần trong 1 tập phim thì cũng phải duyệt kịch bản chi tiết, trọn vẹn cả phim, thậm chí cả chục hay cả trăm tập phim của tất cả các phần không quay tại Việt Nam).

Đổi mới tư duy quản lý mới còn thể hiện ở một chương mới về quảng bá và xúc tiến phát triển điện ảnh, trong đó xác định việc xây dựng, quảng bá thương hiệu điện ảnh quốc gia, vùng, địa phương, doanh nghiệp; nghiên cứu, phát triển thị trường điện ảnh trong nước và nước ngoài - những yếu tố cần thiết để phát triển công nghiệp điện ảnh. Hơn nữa, quy định trong Điều 38 “cơ quan nhà nước ở trung ương, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan, tổ chức khác đáp ứng các điều kiện theo quy định của Chính phủ được tổ chức liên hoan phim, liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề, giải thưởng phim, cuộc thi phim, chương trình phim và tuần phim tại Việt Nam” sẽ là động lực phát triển thương hiệu điện ảnh, đặc biệt là đã khuyến khích được các nguồn lực ngoài nhà nước chung tay xây dựng thương hiệu điện ảnh Việt, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.

Vì sao Liên hoan phim góp phần xây dựng công nghiệp điện ảnh:

Cách đây 27 năm, năm 1995 Liên hoan phim Busan lần đầu tiên được tổ chức rất khiêm tốn tại một thành phố không mấy nổi tiếng ở Hàn Quốc, khi điện ảnh Hàn Quốc mới bắt đầu trào lưu mới. Nhưng LHP Busan đã đồng hành với sự lớn mạnh của điện ảnh Hàn Quốc, vô số phim xuất sắc của Hàn Quốc và các nền điện ảnh trên thế giới quy tụ về đây. Thành phố Busan giờ đã được cả thế giới biết đến, thu hút du lịch nhất nhì Hàn Quốc. LHP Busan trở thành một trong những LHP hàng đầu của châu Á, công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc phát triển nổi bật nhất châu Á và thuộc top đầu thế giới cả ở sự thành công của các tác phẩm điện ảnh đỉnh cao lẫn sự tăng trưởng thị phần. Sự phát triển của công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc và của LHP Busan có thể xem là bài học kinh nghiệm gần gũi cho Việt Nam.

Gần đây nhất, Việt Nam đã có một sự kiện điện ảnh lớn, rất được quan tâm trong phạm vi cả nước và khu vực châu Á. Đó là Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần thứ Nhất, 2023 (The 1* Da Nang Asian Film Festival - DANAFF I) với chủ đề “DANAFF - Nhịp cầu châu Á” được tổ chức từ ngày 09/5 đến ngày 13/5/2023 do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng chỉ đạo, Hiệp hội Xúc tiến phát triển Điện ảnh Việt Nam (VFDA) chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Đà Nẵng cùng các sở ngành, các tổ chức Việt Nam và quốc tế thực hiện.

DANAFF I là sự kiện điện ảnh quốc tế tiên phong minh chứng cho việc đưa quy định mới trong Luật Điện ảnh của Việt Nam năm 2022 vào cuộc sống, nghĩa là Liên hoan phim đầu tiên được tổ chức bởi một thành phố và Hội nghề nghiệp. Xu thế này phù hợp với sự phát triển của công nghiệp điện ảnh, gắn kết thành phố Đà Nẵng giàu tiềm năng với điện ảnh khu vực và thế giới, đồng thời điện ảnh sẽ làm thăng hoa và lan tỏa sức cuốn hút của thành phố Đà Nẵng. Liên hoan phim cũng góp phần đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả: đưa tinh hoa điện ảnh châu Á và thế giới vào Việt Nam và giới thiệu các tác phẩm điện ảnh chọn lọc cũng như hình ảnh Việt Nam với bạn bè khu vực và quốc tế.

DANAFF I đã tạo được dấu ấn riêng của một LHP trẻ, tươi mới, giàu sức sống, hứa hẹn một thương hiệu Liên hoan phim mới trong khu vực. DANAFF ra đời đúng lúc khi cuộc sống nói chung, ngành điện ảnh nói riêng đang hồi sinh sau đại dịch covid 19, theo đó, có ý nghĩa khích lệ niềm tin vào sự phát triển của công nghiệp điện ảnh Việt Nam, tạo sự cân bằng cho dòng phim nghệ thuật và giải trí. Đã có hàng trăm bài báo, phóng sự truyền hình về DANAFF I, đại đa số đều khẳng định sự chuyên nghiệp, chất lượng và sức lan tỏa của Liên hoan phim cả về nghề nghiệp lẫn giá trị quảng bá hình ảnh Việt Nam, hình ảnh Đà Nẵng ra thế giới. Sự kiện điện ảnh lớn như Liên hoan phim nói chung và DANAFF I nói riêng thể hiện tư duy mới, góp phần xây dựng và phát triển công nghiệp điện ảnh Việt Nam.

Đổi mới tư duy sáng tác và quản lý để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam
TS Ngô Phương Lan

"Đổi mới tư duy sáng tác và quản lý để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam" được trích từ phần II: TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM" của tác phẩm "Phác thảo điện ảnh Việt Nam thời đổi mới và hội nhập" của TS Ngô Phương Lan. Sách do Nxb Hội Nhà văn Việt Nam phát hành.

TS Ngô Phương Lan tốt nghiệp Đại học Điện ảnh quốc gia Liên Xô (VGIK). Bà nguyên là Cục trưởng Cục Điện ảnh và hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương khóa V; Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam. TS Ngô Phương Lan được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2017.

Phác thảo Điện ảnh Việt Nam thời đổi mới và hội nhập

Bình luận

avatar-comment
Cây Nhập Nhân hoa cổ. Tản văn của Trịnh Hoàn

Cây Nhập Nhân hoa cổ. Tản văn của Trịnh Hoàn

Baovannghe.vn - Lần nào về chùa Vĩnh Nghiêm lễ Phật tôi cũng muốn nán lại thật lâu bên gốc cây Nhập Nhân cổ phía sau chùa. Nán lại không phải để lảng tránh việc đời hay ngại ngần gì ở trần gian thế tục, mà chỉ đơn giản là ở đây cho tôi cảm nhận rõ hơn về sự trong lành, mát mẻ, tĩnh mịch và thâm u.
Phát động phong trào "Học tập trên các nền tảng số”

Phát động phong trào "Học tập trên các nền tảng số”

Baovannghe.vn - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Kế hoạch số 3061/KH-BVHTTDL phát động phong trào “Học tập trên các nền tảng số”.
Nắng vỡ. Truyện ngắn của Lê Thanh Kỳ

Nắng vỡ. Truyện ngắn của Lê Thanh Kỳ

Baovannghe.vn - Hoài bước chân vào nhà rồi đóng sầm cửa lại. Đây là nhà của cô. Cô mới mua. Căn hộ rộng ba nhăm năm mét, đồng dạng với cái hộp diêm.
Nghệ thuật rối cổ truyền Nhật Bản đến với người dân Thủ đô

Nghệ thuật rối cổ truyền Nhật Bản đến với người dân Thủ đô

Baovannghe.vn - Bunraku là nghệ thuật rối cổ truyền, nổi bật với sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật điều khiển rối tinh xảo, nghệ thuật kể chuyện giàu cảm xúc và âm nhạc truyền thống.
Cả nước đồng loạt công bố Nghị quyết, Quyết định sáp nhập đơn vị hành chính, chỉ định nhân sự

Cả nước đồng loạt công bố Nghị quyết, Quyết định sáp nhập đơn vị hành chính, chỉ định nhân sự

Baovannghe.vn - Sáng nay (30/6/2025), trên cả nước sẽ đồng loạt diễn ra Lễ công bố các nghị quyết, quyết định của Trung ương và địa phương về sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, thành lập tổ chức đảng, chỉ định cấp ủy, HĐND, UBND, MTTQ tỉnh, thành phố, xã, phường, đặc khu.