Đó là tài và tình - hai phẩm chất, hai phương diện làm nên đặc trưng của nhà Nho Uy Viễn; và xét rộng ra thì dường như cũng là đặc trưng của người xứ Nghệ nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Tài và tình - đã đến ngưỡng của danh nhân văn hoá thì dường như ai mà chẳng có, chẳng phải riêng xứ Nghệ, hoặc Hà Tĩnh; nhưng với Nguyễn Công Trứ thì, theo tôi, dường như hai phẩm chất đó là đậm nét hơn, đột xuất hơn, gây ấn tượng nhiều hơn.
Không chỉ một lần, Nguyễn nói đến cái tài và cái chí của mình:
Đã mang tiếng đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
…
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai, nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Và:
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Cái tài được giắt lưng này gần như đi suốt cuộc đời Nguyễn Công Trứ; và với câu thơ này nó có mang theo một ý vị chua chát; bởi, dường như nó chưa bao giờ được dùng hết; đành cứ phải giắt lưng, không phải là để dành, mà như một sự dư thừa, bỏ phí; bởi, cũng như nhiều danh nhân khác vào mở đầu thế kỷ XIX, trong khai trương một triều đại mới - triều Nguyễn Gia Long, đó là một thời khó sống.
Có tài, và cái tài ấy rồi cũng được sử dụng, vì lợi ích của một vương triều, mà Nguyễn Công Trứ sẽ là một tôi trung mẫn cán, kể từ 1803 - năm Gia Long thứ nhất, khi Nguyễn đã ở tuổi 25, dâng Thái bình thập sách. Nhưng để có thể lọt vào “mắt xanh”, vào “tầm ngắm” của triều đình, Nguyễn đã phải trải biết bao là lận đận. Lận đận từ những cuộc khảo thí, phải ba lần thi Hương, vào các năm 1803, 1813, đến 1819 mới giành được cái Giải nguyên, ở tuổi 41; để, với nó mà có chức quan khởi nghiệp là Hành tẩu Quốc sử quán - năm 1820. Phải vào tuổi 42, Nguyễn mới có cơ hội để thực hiện chí nam nhi, như vậy rõ ràng là quá muộn. Tuổi 42 vào năm 1820, đó là năm Minh Mệnh thứ nhất; và 20 năm dưới triều Minh Mệnh, Nguyễn đã có cơ hội để thực thi hai phương diện của tài năng và sự nghiệp. Đó là việc dẹp giặc Phan Bá Vành - năm 1827, và giặc Nùng Văn Vân - năm 1833; thực chất là dẹp nông dân khởi nghĩa; để sau đó, nhận chức quan đầu triều hàm Binh Bộ Thượng Thư, kiêm Thự Tổng đốc Quảng An - năm 1836 ở tuổi 58. Đây cũng là thời gian Nguyễn bộc lộ tư chất một nhà kinh tế, trong việc khai khẩn đất hoang và mở mang thuỷ lợi, để lập nên hai huyện mới là Tiền Hải - Thái Bình và Kim Sơn - Ninh Bình. Với sự nghiệp này, Nguyễn được nhân dân hai huyện lập đền thờ, để tế sống - với đôi câu đối chữ Hán, qua lời dịch:
Trên đất dựng sinh từ,
làng Đông Ấp trăm năm kỷ niệm
Giữa trời trơ cột đá,
ngọn Hồng Sơn muôn thuở sáng cao.
Nguyễn đã 6 lần dâng sớ, mong củng cố uy thế của triều đình bằng phép nghiêm trừ giặc cướp; nghiêm trị nạn cường hào; tổ chức chính sự ở Tiền Hải; lập chế độ quân dịch; hợp nhất hai tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang; rút quân khỏi Trấn Tây… “Trời đất cho ta một cái tài”- cái tài đó ở Nguyễn ít nhiều cũng đã được sử dụng. Nguyễn cũng đã có lúc nhận được ơn riêng Minh Mệnh. Vậy là cái khao khát dấn thân và chí nam nhi của Nguyễn cũng đã có hoàn cảnh thi thố; và được triều đình tin cậy, ở cả hai phương diện xem ra là không cùng chiều: đánh dẹp khởi nghĩa nông dân và khai khẩn đất hoang cho dân. Ở hai sự nghiệp đó, cố nhiên Nguyễn không thể thấy là trái ngược, bởi “nghĩa quân thân”… Bởi cái ý chí đã được nuôi từ rất sớm: “Ba vạn anh hùng đè xuống dưới. Chín lần thiên tử đội lên trên”. Bởi cái quan niệm như đinh đóng cột: “Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người”.
Kể về tài trên cả hai phương diện: binh nghiệp và mở mang kinh tế; vừa dẹp khởi nghĩa nông dân, vừa lo đất ruộng - cơm áo cho dân - rồi được nhân dân lập đền thờ, thì, so với người đương thời, Nguyễn là nhân vật số một. Có điều cần lưu ý là ông đã phải thực hiện cái tài và cái chí của mình trong muôn vàn hiểm nguy và bất trắc, bởi sự ghen tị và đố kỵ của triều đình. Quan lộ của Nguyễn là một biểu đồ liên tục (hoặc dày đặc) những thăng giáng, bởi những nguyên cớ không có gì to - chẳng hạn vì một tên tù sổng mà bị giáng 4 cấp; có lần bị vu cáo có thuộc hạ buôn lậu mà bị giáng làm lính thú - biên phòng - vào năm 1844, thời Thiệu Trị. Từ Tổng đốc, hàm Binh Bộ Thượng Thư đến lính thú, đó là hai cực vinh nhục của đời người; ứng phó với tình cảnh ấy, vẫn là một Nguyễn Công Trứ, với cốt cách an nhiên, ung dung, tự tại. Nếu chức Tổng đốc không xem là vinh, thì lính thú có gì là nhục! Như vậy, xem ra, nếu không bị ức chế, nếu quan lộ tất cả đều hanh thông thì sự nghiệp Nguyễn còn vươn cao tới đâu? Nguyễn sẽ là nhân vật như thế nào trong con mắt hậu thế? Tấm gương những công thần bậc nhất của Gia Long như Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt còn treo đấy. Không kể bản án tru di ba họ dành cho Cao Bá Quát sau khởi nghĩa Mỹ Lương. Bởi cuối cùng, nhìn vào những thăng giáng liên tục mà ông vẫn còn là ông. Để cho hậu thế còn được tiếp tục ngưỡng mộ một Nguyễn Công Trứ ở tuổi thọ ngoài bảy mươi, thực hiện tiếp một chữ tình cho riêng mình, bên một chữ tài, khó mà tận dụng hết công suất!
*
Năm 1849, ở tuổi 71, Nguyễn Công Trứ chính thức nghỉ hưu, trở về quê Hà Tĩnh, sau hai lần xin hưu mà Tự Đức không cho. Vậy là sau ngót ba mươi năm quan lộ, Nguyễn sẽ được trở về với cốt cách đích thực của mình - một nhà Nho có gốc quê sinh, dưới chân Ngàn Hống, gắn với sông Lam núi Hồng; vùng đất đã sinh ra một bên là giòng họ Nguyễn Huy, với nhiều tên tuổi làm nên trường phái văn chương Trường Lưu, trong đó Nguyễn Huy Tự (1743-1790) với tác phẩm Hoa tiên – một truyện thơ Nôm, nói theo Tĩnh Tịnh Trai: “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng, mà trong khoảng giữa không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra khỏi những chuyện gió trăng”; và một bên là giòng họ Nguyễn Tiên Điền, với Nguyễn Du - tác giả Sinh tế Trường Lưu nhị nữ, Long thành cầm giả ca, cùng Văn chiêu hồn và Truyện Kiều bất hủ.
Địa linh gắn với nhân kiệt. Kế tiếp Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du sẽ là Nguyễn Công Trứ, không phải chờ đến lúc này mới là biểu trưng cho một cốt cách đa tình, một nguồn mạch trữ tình, với những sắc thái mới, trong tương ứng với thời đại.
Người hăm hở dấn thân, với bao vinh nhục, thăng trầm, “lên voi xuống chó”, phải đến bây giờ, vào tuổi 70 mới là lúc được trở về với chính bản thân mình, trong một tổng kết vừa bùi ngùi, vừa chua chát:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc lộn cười.
Ngày về quê, chia tay với những người đưa tiễn, Nguyễn cưỡi một con bò vàng, và cho treo vào đuôi bò một chiếc mo cau, ghi bốn câu thơ:
Ngựa ngựa xe xe đã tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Giai thoại này có thể là sáng tạo của dân, nhưng đúng là phù hợp với tính cách Nguyễn Công Trứ.
Khác với nhiều tên tuổi cùng thời, Nguyễn không có một sự nghiệp thơ chữ Hán với chỉ một bài được lưu lại - đó là bài Thất thập tự thọ. Tất cả, gồm vài chục bài thơ Nôm Đường luật và trên sáu mươi bài là hát nói, là ca trù. Với thơ Nôm, thỉnh thoảng Nguyễn có giọng bất bình, bi phẫn: Đéo mẹ, nhân tình - đã biết rồi. Nhạt như nước ốc, bạc như vôi/ Tiền tài hai chữ son khuyên ngược. Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi/ Nghe như chọc giận tai làm điếc. Giận đã căm gan mỉm miệng cười… Nhưng đó chỉ là một tỷ lệ nhỏ, so với thơ nói về chí trai và khát vọng lập công danh. Có chán đời, nhưng vẫn bám mà không bỏ đời. Bởi với chí lập thân dẻo dai ở tuổi tráng niên và ngót 30 năm dấn thân, Nguyễn đã có cơ hội hành động và dồn hết tâm, sinh lực vào hành động. Một sự nghiệp văn chương, đó là điều không thể không có, đối với bất cứ ai là nhà Nho, là kẻ sĩ; nhưng với Nguyễn Công Trứ, sự nghiệp đó lại đi theo một ngã rẽ khác, chủ yếu thuộc vào những năm cuối đời sau một hành trình ngót 30 năm hăm hở bỗng bất chợt nhận ra cái vô nghĩa, hư vô của một cuộc dấn thân. Vậy là còn lại được những gì cho Nguyễn, khi đã hết hoặc đã chán con đường công danh, “như bóng đèn, như mây nổi”? Một mẫu hình mới của nhà Nho - hành lạc, hưởng lạc đã xuất hiện qua chân dung Nguyễn Công Trứ, ứng với một thời rạn vỡ các quan niệm chính danh, chính thống của Nho giáo lấy tu, tề, trị, bình làm căn bản. Con người với những lạc thú cá nhân đã xuất hiện và tìm đến sự thể hiện mình trong thơ, không phải thơ Đường luật Trung Hoa, mà là thơ Nôm dân tộc. Và không chỉ là Nôm để ngâm mà còn là ca, là ca trù, là hát nói, như là một thú chơi, với rượu, với thơ, với đàn sáo, với thanh và sắc, với ca kỹ, con hát, người hầu. Chơi cho lịch mới là chơi. Chơi cho đài các, cho người biết tay…. Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề. Có yến yến hường hường mới thú. Khi đắc ý mắt đi mày lại. Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng. Cái thú chơi từ thuở thiếu niên đã từng là niềm đam mê của Nguyễn, chơi nhưng vẫn không ngừng theo đuổi ráo riết mộng công hầu, lẽ tự nhiên đến tuổi già, ngoài 70 nó mới biểu lộ như một thăng hoa, trong cái cảnh:
Gót tiên chơi đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Cả trong sự hoan lạc thật là dẻo dai, nồng nàn ở tuổi ngoài 70 trong chốn buồng the:
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ tơ đào còn mảnh mảnh
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh
Nhất toạ lê hoa áp hải đường
nó làm rạng rỡ một chân dung Nguyễn, như một biểu trưng cực kỳ đột xuất và độc đáo cho một thái độ sống, rồi sẽ làm nên một khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật trong văn chương dân tộc, vốn đã hình thành từ cuối thế kỷ trước với Phạm Thái, và nối về sau với Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, rồi tiếp đó là Tản Đà, cho đến Nguyễn Tuân và phong trào Thơ mới, những người mở đường cho văn học hiện đại.
Ở tuổi 70, trong tư cách một hưu quan vẫn còn có thời gian chẵn 10 năm cho Nguyễn làm một cuộc đổi mới mình thật là ngoạn mục, ở tư cách con người hành lạc, con người hưởng thụ, thay cho con người dấn thân vì một vương triều mà ông rất mơ hồ trong đánh giá vai trò đại diện của nó: Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy. Nếu không chơi thiệt ấy ai bì/ Nhân sinh bất hành lạc. Thiên tuế diệc vi thương (Đời người không hành lạc, sống hàng ngàn năm cũng như chết non). Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời. Tiêu khiển một vài chung lếu láo…
Bộ phận thơ viết về con người hành lạc và các thú chơi này ở Nguyễn Công Trứ tôi nghĩ số lớn là được viết vào phần cuối đời. Đoán vậy bởi thơ văn Nguyễn không để lại năm tháng viết. Đương nhiên là thời hàn vi và làm quan cũng không thiếu các thú chơi, đối với một người ham vui hoặc ham chơi như Nguyễn. Câu chuyện Giang sơn một gánh giữa đồng. Thuyền quyên ‘ứ hự” anh hùng nhớ chăng? là chuyện thực một trăm phần trăm chứ không phải là giai thoại. Nhưng hẳn phải vào cuối đời, khi đã chấm hết mọi phận sự và công danh, khi đã ngấm mọi vinh nhục “khóc lộn cười”, trong cõi “trần ai”, Nguyễn mới có dịp tổng kết để đến với một triết lý mang ý vị thế giới quan và nhân sinh quan nghiêm chỉnh: Đời rút lại chỉ là một cuộc chơi lớn; một cuộc chơi trong cõi nhân sinh “ba vạn sáu nghìn ngày”, như một “miếng da lừa” bị co kéo giữa hai phía của bậc thầy chủ nghĩa hiện thực phương Tây Balzac - người cùng thời với Nguyễn, khiến con người chớ dại mà “tiêu nhăng” (Nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày. Vạn sáu tiêu nhăng hết cả rồi); con người phải khôn ngoan mở “rộng đất chơi” (Nhắn con Tạo hoá xoay thời lại. Để khách tang bồng rộng đất chơi). Triết lý ấy ứng vào cái thời ấy, cái thời đất nước đang âm thầm tích tụ cho một cuộc thay đổi, khi cái cũ đã không còn lý do để tồn tại, và cái mới chỉ vừa hé lộ trong các nền móng vật chất và tinh thần của xã hội.
Cái thời hình thành nền kinh tế hàng hoá; mở rộng sự giao lưu, buôn bán; xuất hiện những trung tâm kinh tế mới như Hội An, Kinh Kỳ, Phố Hiến… Cái thời đồng tiền đã có thể làm lung lay mọi nền tảng đạo lý cũ và cái tôi cá nhân với yêu cầu giải phóng đã hiện diện với sức công phá tiềm tàng của nó.
Với tài và tình, Nguyễn đã là người góp phần khơi rộng và tạo một lối rẽ cho con người được trở về với chính cá nhân mình, chính cái tôi riêng của mình trong khát vọng hưởng thụ mà hệ tư tưởng chính thống Nho giáo đã bóp nghẹt và vắt kiệt trong một xã hội phong kiến kéo quá dài trong lịch sử.
Cái thời giả định nếu không có sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây thì cũng sẽ chín muồi cho một nhu cầu khẩn thiết phải thay đổi, đang nung nấu một giải pháp hẳn chắc không khác mấy với phong trào Tây Sơn mà Gia Long đã tận diệt…
Nguồn Văn nghệ số 49/2018