Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhạc sĩ đỗ Nhuận, nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật đã được tổ chức. Ngày 10/12/2022, Hội nhạc sĩ Việt Nam và gia đình đã tổ chức khánh thành Nhà lưu niệm nhạc sĩ Đỗ Nhuận tại quê ông- thôn Hoạch Trạch, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ngày 25/12, một cuộc Hội thảo về Đỗ Nhuận cũng được Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức, cùng một chương trình nghệ thuật Đỗ Nhuận - Âm thanh cuộc đời với quy mô hoành tráng, trong đó thể hiện những ca kịch của ông và tái hiện cuộc đời sáng tác, hoạt động cách mạng của người nhạc sĩ - chiến sĩ hàng đầu của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam.
![]() |
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận (1922-1991) |
Đỗ Nhuận là một trong những nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Ông là thành viên sáng lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam năm 1957, Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam (khóa I và khóa II) từ năm 1958 đến 1983. Trải qua các nhà tù đế quốc, từ nhà tù Hỏa Lò đến nhà tù Sơn La, ông sớm giác ngộ lý tưởng và trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên trung, tôi luyện và trưởng thành trong những năm tháng đấu tranh đầy cam go máu lửa của dân tộc. Tuổi thơ đam mê và nhạy cảm âm nhạc, ông tự học, tự chưng cất những “âm thanh cuộc đời” để vun đắp tâm hồn trong tinh hoa âm nhạc dân tộc. Trưởng thành trong phong trào cách mạng, sau ngày độc lập, ông được Nhà nước cử đi đào tạo chính quy tại Nhạc viện Trai-kov-ski, Mat-xcơ-va. Như con ong hút mật từ nhụy hoa âm nhạc dân tộc truyền thống để hấp thụ tinh hoa âm nhạc thế giới đương đại, ông trở thành nhạc sĩ đầu tiên đặt nền móng cho các giao hưởng, ca kịch, hợp xướng, nhạc pop… đưa số phận nhân vật, xung đột kịch tính vào những vở opera đầu tiên ở Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhạc sĩ Đỗ Nhuận (10/12/1922 – 10/12/2022), điểm lại sự nghiệp sáng tác và hoạt động cách mạng của ông, chúng ta càng thấy rõ những cống hiến lớn lao của người nhạc sĩ - chiến sĩ hàng đầu của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam.
Từ “Âm thanh cuộc đời” đến con đường âm nhạc
Âm thanh cuộc đời là tên cuốn hồi ký của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Ngay từ khi lọt lòng, thiên nhiên đã ùa đến với ông qua tiếng mưa rơi, nước chảy, tiếng sấm chớp ì ùng, tiếng chim hót líu lo, nơi ông cất tiếng khóc chào đời từ manh chiếu, ổ rơm dưới gốc ổi vườn nhà. Những năm tháng ấu thơ, ông được tắm mình trong nhịp phách “đong đầy đong vực” của phường trống, tiếng rao “quát thác” của cô bé bán than, tiếng hò dô của đoàn người kéo gỗ, tiếng kèn ống đu đủ trong trò múa dao của ông Hai Tây ở xóm Ao Than. Lên lớp 3, ông bắt đầu biết rung cảm trước những âm thanh cuộc sống từ giai điệu kèn lá của người nghệ sĩ tài tử đi biểu diễn ở các trường tiểu học, tiếng kèn đồng của bố, tiếng sáo trúc của ông già mù bán lạc rang, những bài ca của dàn nhạc học sinh Trường trung học Hoa kiều…
Từ những âm thanh cuộc đời nguyên sơ trong trẻo đó, ông đã chưng cất cho mình những nhạc cảm đầu tiên. Mày mò học hỏi ông già mù bán lạc rang về cây sáo trúc, học anh thợ may về cây đàn tứ, học bác cung văn ở cạnh vách nhà các bài hát văn, học người cậu trùm chèo các điệu hát chèo, học đàn bầu và hòa nhạc cùng nhóm nhạc cải lương ở Lạc Viên, Hải Phòng.
Thành phố Cảng Hải Phòng những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, nơi Đỗ Nhuận có nhiều năm sinh sống gắn bó từ thời niên thiếu, thực sự là cái nôi âm nhạc truyền thống, đã nuôi dưỡng mạch nguồn nghệ thuật trong ông. Ông tự học âm nhạc dân tộc và biết chơi sáo trúc, tiêu, đàn nguyệt, đàn tứ, đàn bầu từ năm 14 tuổi. Không khí cải cách của Tân nhạc được nhen nhóm thời bấy giờ như một luồng gió mới. Ông say sưa học đàn guitare, banjo, kèn harmonica, violon, baian và ghi âm. Năm 17 tuổi (1939), Đỗ Nhuận cho ra đời tác phẩm đầu tiên là bài hát Trưng Vương, được xuất bản và phổ biến rộng rãi, đặc biệt ở Hải Dương quê ông, nhân dịp kỷ niệm 1900 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Năm 19 tuổi ông sáng tác ca kịch Nguyễn Trãi – Phi Khanh và Đường lên ải Bắc, được công diễn tại rạp chiếu bóng Hải Dương. Những tác phẩm âm nhạc đầu tiên của ông đã thấm đẫm tình yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Nhạc cảm của Đỗ Nhuận được ươm mầm từ những chuyến đi thực tế và sự giao hòa với âm thanh cuộc đời. Ý nhạc Hành quân xa bật lên trên những cung đường. Giai điệu rộng dài của Du kích sông Thao ngân nga khi nhạc sĩ thả hồn bên sóng nước sông Hồng. Những tiết tấu sinh động ra đời khi chăm chú lắng nghe bản hợp xướng diệu kỳ của tiếng côn trùng hòa âm trong đêm vắng. Những âm thanh của thiên nhiên kỳ thú, những cung bậc của các loại nhạc cụ dân tộc đã vun đắp trong ông xúc cảm nhạy bén và những phản xạ âm nhạc tinh tế. Ông quan niệm, cần phải biết tích lũy vốn sống, ươm mầm những cảm thụ âm nhạc để vun đắp tâm hồn. Tài năng âm nhạc không tự nhiên mà có. Ngoài năng khiếu bẩm sinh, phải biết chắt lọc âm thanh cuộc đời để sáng tạo nên những giá trị âm nhạc.
Đỗ Nhuận đặc biệt chú ý đến yếu tố “tròn vành rõ chữ” khi thể hiện ca từ trong sáng tác ca khúc. Ông nắn nót trong định hình nốt nhạc để lời ca không bị gò ép, lấn lướt, lệch nghĩa trong giai điệu. Trong câu hát “Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ” chữ “khổ” rất dễ bị hát nhầm thành “khồ” nếu chỉ đặt vào đó một nốt nhạc. Vì vậy ông đã dùng hai nốt “Là” và “Rề”cho một từ có dấu hỏi này. Tương tự như vậy, chữ “thỏa” trong câu “Thỏa lòng ta dâng Bác bấy lâu chờ mong” (bài Chiến thắng Điện Biên) hay chữ “đảm” trong bài Trai anh hùng giá đảm đang đều được ông ghép hai nốt nhạc. Một chi tiết nhỏ nhưng cho thấy sự cẩn trọng, khúc chiết, làm chủ giai điệu, làm chủ “âm thanh cuộc đời” trong sáng tạo nghệ thuật của người nhạc sĩ.
![]() |
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận tại Nhạc viện Tchaikovsky, 1959 |
Người nhạc sĩ - chiến sĩ cách mạng kiên trung
Năm 1939, khi viết tác phẩm âm nhạc đầu tiên cũng chính là thời điểm Đỗ Nhuận đến với Cách mạng từ lòng yêu nước thiết tha. Cũng từ đó tài năng âm nhạc của ông đã được khơi chảy. Ông thực sự giác ngộ cách mạng, bắt đầu dấn thân vào con đường của người nhạc sĩ - chiến sĩ đầy gian lao thử thách.
Từ những bài hát mang cảm hứng lịch sử ban đầu như Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc, ông soạn nên ca kịch Nguyễn Trãi – Phi Khanh. Thời gian này Đỗ Nhuận nôn nóng tiếp cận các đầu mối cách mạng để tìm đường đi vào hoạt động. Ông tìm đến anh Vũ Quý, Đoàn trưởng Đoàn Tráng sinh Nam Triệu, anh Lương Văn Trọng, đảng viên cộng sản, cán bộ quân sự trong phái đoàn quân sự Nam bộ. Đỗ Nhuận được tiếp cận với cuốn Điều lệ Việt Minh, Bắc Sơn khởi nghĩa, tha thiết xin tham gia những chuyến đưa hàng qua biên giới (thuốc súng, thuốc tây, bông băng) giao cho Hội Giải phóng do Đảng ta thành lập ở Vân Nam giúp Chính phủ Vân Nam kháng Nhật. Lời ca “Hề non sông! Con ơi nhìn non sông/ Nuốt hận sao? Kìa dấu xưa anh hùng” trong ca cảnh Nguyễn Trãi – Phi Khanh như muốn gieo vào khán giả tinh thần đấu tranh anh dũng chống kẻ thù ngoại bang của dân tộc.
Năm 1943, ông bị mật thám Pháp bắt giam vào nhà lao Hải Dương, rồi đưa lên Hỏa Lò và sau bị đày lên Sơn La vì in và rải truyền đơn, cắm cờ đỏ búa liềm ở phố huyện tuyên truyền cho cách mạng. Cắn răng chịu tra tấn, xiềng xích, Đỗ Nhuận nhận tất cả về mình, không khai nửa lời về các đồng chí của mình. Những bản nhạc ra đời trong lao tù và tiếng hát từ chốn ngục tù vang lên. Nhiều bài hát cách mạng đã được Đỗ Nhuận viết trong những năm tháng lao tù như Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù nhân, Du kích ca, Viếng mồ tử sĩ. Không giấy bút, không nhạc cụ, những giai điệu, lời ca hiện lên, ngân nga và chỉ có cách nhớ thuộc lòng để truyền khẩu lại cho đồng chí, đồng đội; “Chiều nay tiếng chiêng khua/ Âm trong nương mờ mờ hơi sương/ Có bóng đoàn Hồng quân/ Nhòa trong khói sương sa trường”.
Trong nhà tù Hỏa Lò, những bài hát của Đỗ Nhuận mới sáng tác vang lên đầy khích lệ, thúc đẩy tinh thần chiến đấu: “Đứng lên mau! Dân Việt Nam đau sầu/ Cất tiếng hát, hồn phấn chấn lòng thảnh thơi” (Tiếng gọi tù nhân), “Tiến lên vì nước/ Quân dân Việt Nam/ Non nước nát tan vì quân thù xâm lấn” (Tiễn quân lên đường).
Ngoài viết ca kịch, viết nhạc, khi có điều kiện Đỗ Nhuận cùng các chiến sĩ trong tù ra tờ báo Xuân tù. Giấy báo được dùng từ mặt trắng của những lá thư người nhà gửi vào. Lấy thuốc tây từ nhà thuốc để pha màu mực. Thuốc đỏ chế màu đỏ, thuốc ký ninh chế màu vàng, thuốc sốt rét quinobleu làm màu xanh. Tờ báo cổ vũ tinh thần đấu tranh của các chiến sĩ trong nhà tù Hỏa Lò. Với phương châm “Tinh thần cao chưa đủ, phải có văn hóa mới làm được Cách mạng”, cuộc đấu tranh tuyệt thực, rồi đấu tranh “Hò la” liên tiếp nổ ra trong âm vang các bài ca của Đỗ Nhuận, Vương Gia Khương. Các anh bẻ sắt cùm mài giũa hàng tuần chế ra con dao để đẽo gọt gỗ thành chuôi đàn, gập ống bơ làm phím đàn, dây điện làm dây đàn, vỏ bầu khô làm thùng đàn. Những chiếc đàn mandolin, đàn violon 4 dây và cây nhị, ống tiêu tự chế ra đời. Ống bơ, lập là cơm dùng làm bộ gõ, cùi dừa và ống bơ làm mõ… Rồi ban nhạc, đoàn múa rối của các tù chính trị được thành lập. Ca cảnh Nguyễn Trãi – Phi Khanh của Đỗ Nhuận, kịch thơ Chiến sĩ và Hằng Nga của Vương Gia Khương được ban nhạc đi diễn ở các gian nhà trong trại. Tại đây Đỗ Nhuận đã được tiếp xúc với các đồng chí Đỗ Mười, Hoàng Văn Thụ. Ngày anh Hoàng Văn Thụ bị kết án tử hình, Đỗ Nhuận thổi điệu tiêu buồn theo ngón sáo ông già mù thủa nhỏ, anh Vương Gia Khương ngâm Bài ca binh vận đệm theo tiếng tiêu não nuột của Đỗ Nhuận. Tù nhân các trại và cả lính gác trên chòi canh im phăng phắc lắng nghe.
Sau thời gian tra khảo, giam cầm ở Hỏa Lò, những đồng chí mang án tù 7 năm bị đày đi Côn Đảo, Đỗ Nhuận và một số đồng chí bị chuyển về nhà tù Sơn La. Đêm chia tay, Đỗ Nhuận viết bài hát Côn Đảo tặng anh em tù chính trị bị đày đi Côn Đảo: “Dẫu từ nay cô đơn giữa khơi/ Đi đày ra nước non xa vời/ Thề ta hun cho tim máu sôi/ Mong thù kia trả xong mà thôi”.
Một hành trình thử thách mới của người tù chính trị, nhạc sĩ - chiến sĩ Đỗ Nhuận: Nhà tù Sơn La. Trên chặng đường áp giải đoàn tù về Sơn La, qua núi cao, vực sâu, đạp đá núi sắc nhọn, Đỗ Nhuận bật lên giai điệu Hận Sơn La. Từng nét nhạc, lời ca uất nghẹn hờn căm lưu vào tâm khảm. “Sáo sáo… rừng vắng tiếng cuốc kêu/ Khêu mối hận Sơn La/ Sơn La… Sơn La…/ Như tiếng than uất ứa của đoàn tù”. Qua Mộc Châu, Đỗ Nhuận gặp một em bé hết sức đặc biệt, chừng 12 tuổi, thích thú đi theo nghe tiếng hát của đoàn tù. Đỗ Nhuận đã giúp em bé bí mật ghi lại từng câu hát: “Tiến lên vì nước/ Quốc dân Việt Nam/ Non nước nát tan vì quân thù xâm lấn”. Như lời chào chia tay, em cất lên tiếng hát Bài ca Cách mạng, một sáng tác của Đỗ Nhuận: “Đồng bào mau hiệp sức đấu tranh/ Đi đi nước mất sao ta nỡ đành”. Em bé đó sau này chính là nhạc sĩ, GS.NSND Trọng Bằng, Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa V và khóa VI, một trong những người có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền âm nhạc bác học - chuyên nghiệp của nước nhà.
Ở nhà tù Sơn La, Đỗ Nhuận cùng sinh hoạt trong chi bộ Đảng với các anh Nguyễn Lam, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Lê Thanh Nghị. Ông được phân công chép bài, viết bài cho tờ báo Suối reo do anh Xuân Thủy làm chủ biên, về sau anh Nguyễn Đức Quỳ thay anh Xuân Thủy. Ban nhạc ở nhà tù Sơn La được thành lập. Những cây đàn nhị, đàn bầu, banjio, violon thô sơ lại được chế tác từ những gì nhặt nhạnh được trong nhà tù để cùng hòa tấu, diễn kịch thơ, nhạc múa, động viên phong trào đấu tranh, truyền bá cổ vũ tinh thần cách mạng. Cai tù phải ra lệnh cấm không cho lính gác xem văn nghệ của tù nhân vì sợ ảnh hưởng tư tưởng, cảm tình với Cộng sản.
Không khí cách mạng tháng Tám năm 1945 sục sôi như luồng sinh khí mới ùa đến nhà tù Sơn La, thôi thúc Đỗ Nhuận viết bài hát Du kích ca: “Anh em trong đoàn quân du kích/ Cùng vác súng lên nào/ Đi lên! Đi lên!/ Xuyên qua rừng núi/ Trong mây mù đêm tối/ Vượt suối băng ngàn/ Giặc tiến tới đây, súng kia cùng nhau cướp lấy!....Xung phong! Xung phong!...”.
Ra tù trong cao trào đấu tranh tiến tới Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, Đỗ Nhuận viết bài Nhớ chiến khu với giai điệu sâu lắng, trữ tình kêu gọi đồng bào đi lên. Bài hát dễ đi vào quần chúng, phù hợp với yêu cầu cách mạng lúc đó, cần từng bước thay thế những bản nhạc lãng mạn yếu đuối đang thịnh hành bấy giờ như Con thuyền không bến, Giọt mưa thu…
Ngày 2 tháng 9, Bác Hồ ra mắt quốc dân, đọc Tuyên ngôn độc lập. Trên kỳ đài Quảng trường Ba Đình, tiếng kèn hùng tráng của Đoàn Quân nhạc cử hành các bản nhạc Tiến quân ca của Văn Cao, Chiến sĩ Việt Nam và “Du kích ca của Đỗ Nhuận, khích lệ lòng dân trong ngày độc lập.
Vừa được thả hồn trong không khí độc lập tự do của đất nước, Đỗ Nhuận và một số văn nghệ sĩ yêu nước như Xuân Diệu, Minh Tâm đã bị Quốc dân đảng giăng lưới bắt cóc, giam giữ và tra tấn trái phép. Chúng hỏi: “Việt Minh chúng mày là ai?”. Đỗ Nhuận: “Toàn dân là Việt Minh, biết sao được”. Hỏi: “Nhưng kể tên ra!”. Đỗ Nhuận: “Cụ Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp, ông Trường Chinh…”. Tới tấp những trái đấm, những cú đá song phi. Máu mồm, máu mũi tuôn đầy mặt. May được cơ sở tìm cách cứu ra, nếu không Đỗ Nhuận rất dễ bị Quốc dân đảng thủ tiêu trong thời gian này.
Nam bộ kháng chiến (tháng 9/1945), Tiếng súng Nam bộ của Đoỗ Nhuận ra đời. Lời ca chiến đấu hòa quyện tiếng kèn, nhịp trống Đoàn Quân nhạc hùng tráng tiễn đưa các chiến sĩ từ Thủ đô Hà Nội lên tàu vào Nam: “Đường trường vô phương Nam/ Tiếng súng thét vang vang…”
Với ngôn ngữ âm nhạc độc đáo chiếm vị trí đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam, nhiều tác phẩm của Đỗ Nhuận đã gây ấn tượng mạnh mẽ, thúc giục cả đất nước hành trình trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc như Áo mùa đông, Ca ngợi Hồ Chủ tịch, ca kịch Sóng cả không ngã tay chèo, Du kích sông Thao. Đặc biệt ông đã đóng góp vào bộ sử thi âm nhạc về chiến thắng Điện Biên Phủ với những khúc tráng ca Hành quân xa, Trên đồi Him Lam, Chiến thắng Điện Biên.
Hành quân cùng các chiến sĩ vượt sông Hồng từ Thái Nguyên lên Yên Bái, câu nói của cán bộ chính trị động viên chiến sĩ: “Đời chiến sĩ đâu có giặc là ta cứ đi” đã gợi cảm hứng cho ca khúc Hành quân xa. Tại mặt trận Điện Biên Phủ, trong đêm diễn vở chèo Hòn đá mà Đỗ Nhuận vừa là tác giả vừa là diễn viên, dưới ánh đèn dầu phục vụ Bộ Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bắt tay Đỗ Nhuận cười và nói nhỏ: “Đỗ Nhuận chuẩn bị sáng tác bài ca Chiến thắng Điện Biên đi”. Ít lâu sau, tại trận địa Him Lam, bên bếp nhà sàn đỏ lửa, trong khi đồng đội ngủ say, Đỗ Nhuận thức thâu đêm, vừa búng chiếc violon vừa nhẩm những giai điệu: “Giải phóng Điện Biên/ Bộ đội ta tiến quân trở về/ Giữa mùa này hoa nở/ Miền Tây Bắc tưng bừng vui…”. Và bài ca Chiến thắng Điện Biên đã ra đời, lần đầu tiên được đại đội pháo binh cất vang lên đầy tự hào kiêu hãnh.
Sau ngày hòa bình lập lại, trên cương vị Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Đỗ Nhuận vẫn không ngừng sáng tác. Ông là nhạc sĩ duy nhất trong thế hệ đầu của Tân nhạc được cử đi tu nghiệp Đại học tại Nhạc viện Trai-kov-ski từ 1960-1963. Từ đó Đỗ Nhuận đi sâu vào nhạc kịch, và ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên bước chân vào opera, với những vở diễn hoành tráng như Cô Sao, Người tạc tượng. Ông chuyển hướng sang sáng tác các nhạc phẩm khí nhạc, ca kịch múa rối, nhạc phim truyện và phim tài liệu. Những ca khúc sau này của Đỗ Nhuận đã đi cùng năm tháng, được quần chúng yêu thích và phổ biến rộng rãi như: Việt Nam quê hương tôi, Tôi thích thể thao, Em là thợ quét vôi, Đường bốn mùa xuân...
Sắt son với đường lối văn nghệ của Đảng
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận luôn tâm niệm sáng tác không phải vì mình mà là vì quảng đại quần chúng. Ông không chấp nhận lối viết vội vàng, dễ dãi. Sáng tác để phục vụ kịp thời là tốt nhưng không vì thế mà nghèo nàn, khô khan, rập khuôn, không có sáng tạo. “Chúng ta thừa hưởng những thành tựu âm nhạc của nhân loại và cũng sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng chung của nhân loại… Nguyên tắc bảo vệ vốn cũ là để giữ vững cái gốc, còn tiếp thu là nguyên tắc sinh tồn, là tưới tắm, chăm bón cho cái gốc kia chóng đơm hoa, kết trái” - Đỗ Nhuận khẳng định… Ông lắng nghe và tiếp nhận những âm thanh đời thường, học ở trường đời, ở quần chúng nhân dân chất trào lộng và phong cách diễn xuất để sáng tác và biểu diễn. Tiếp thu phong cách hài hước của ông Hai Tây, một ông già cao lớn quá khổ như người phương Tây, chuyên làm trò và hát dạo để bán dầu cao, ông cải biên thành công bài Đèn cù; Vận dụng điệu thức dân tộc để sáng tác bài Hành quân xa với những sáng tạo mới. Từ dân gian, dùng kiến thức sắp xếp lại và trở về với dân gian nhưng không rập khuôn máy móc, không bắt chước người khác và thậm chí không được “bắt chước” chính mình. Nếu vô tình nét nhạc của mình giống một nét nhạc nào đó của ai khác, khi phát hiện ra phải cắt bỏ không thương tiếc….
Hành khúc, hợp xướng là cái cũ của thế giới nhưng lại là cái mới đối với kho tàng âm nhạc cổ truyền của nước ta. Nó là những phương tiện âm nhạc cũng như nhạc kịch hay giao hưởng, chúng ta rất cần để biểu hiện tình cảm, tâm hồn và cuộc đấu tranh của nhân dân. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận luôn động viên lớp trẻ trong việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật và các hình thức biểu hiện mà thế giới đã sáng tạo ra trước để làm cho ngôn ngữ âm nhạc của Việt Nam thêm phong phú, hiện thực. Ông cũng cho rằng “Cần nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc của ta sao cho trong tương lai, chúng ta có thể giới thiệu với nhân dân thế giới những tác phẩm giao hưởng, những vở nhạc kịch độc đáo của Việt Nam, nói lên được trọn vẹn cái đẹp của cuộc đấu tranh anh hùng của dân tộc ta”.
Có thể nói Nhạc sĩ - Chiến sĩ Đỗ Nhuận luôn hóa mình, dấn thân, chung nhịp đập cuộc sống, hơi thở nhân dân. Con đường đến với âm nhạc cũng như con đường bước vào cuộc đời người chiến sĩ cách mạng của Đỗ Nhuận tự nhiên như suối nguồn tuôn chảy vào dòng sông để đi ra biển cả.
Lê Cảnh Nhạc
Nguồn Văn nghệ số 52/2022