Diễn đàn lý luận

Lang thang mây trắng xứ Đoài

Chân dung văn học
08:06 | 09/05/2020
Những ngày xuân Canh Tý 2020 trời đất bao đổi thay bất ngờ. Mưa gió sầm sầm, sấm nổi. Dịch Covid-19 bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc) đe dọa sinh mệnh người dân nhiều quốc gia. Lộc mùa xuân thu lại, người ra đường khẩu trang che kín mặt. Học sinh các cấp nghỉ học, tôi được con cái phân việc trông các cháu, lục tìm lại sách bạn bè đọc giết thời gian
aa

Những ngày xuân Canh Tý 2020 trời đất bao đổi thay bất ngờ. Mưa gió sầm sầm, sấm nổi. Dịch Covid-19 bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc) đe dọa sinh mệnh người dân nhiều quốc gia. Lộc mùa xuân thu lại, người ra đường khẩu trang che kín mặt. Học sinh các cấp nghỉ học, tôi được con cái phân việc trông các cháu, lục tìm lại sách bạn bè đọc giết thời gian. Tình cờ trên giá sách có năm tập thơ và hai tập chân dung văn học của nhà thơ Khuất Bình Nguyên, người bạn đồng niên cùng tuổi Canh Dần gửi tặng, tôi mới loáng thoáng đọc nay có thời gian đọc kỹ, chậm. Thật vui và bất ngờ những câu thơ, trang văn của Khuất Bình Nguyên mê cảm, tinh tế, hút hồn, cho tôi dịu lắng tâm người trong những ngày chống dịch Covid-19!

Nhà thơ Khuất Bình Nguyên

Ngọn nến thời gian trăn trở phận con người

(Hoa sứ)

Nhà thơ Khuất Bình Nguyên tên khai sinh Khuất Văn Nga sinh năm 1950 ở làng Cầu Chò nay là thôn Gia Hòa, xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, Hà Nội trong một gia đình nông dân nghèo có bảy người con. Xứ Đoài, một trong tứ trấn, phên dậu phía tây của kinh thành Thăng Long, vùng đất địa linh nhân kiệt nhiều huyền thoại, sử thi, nằm ở hữu ngạn sông Hồng… Làng Cầu Chò có con sông nhỏ chảy chia đôi như vận vào số phận: Con trai xa nhà mới lập nghiệp, con gái chăm làm chịu nhịn mà nhiều long đong. Đứng ở cổng làng mái ngói rêu phong cậu bé Nga nhìn về xa mờ Ba Vì mây phủ, nghe dòng sông Tích chảy chậm qua đồi, qua núi. Mảnh vườn đồi đất đỏ, sỏi đá gan gà xen lẫn có giếng đá ong sâu thẳm, trong vắt soi tỏ mặt người, bên cạnh đám rau cần, rau muống mọc loi thoi. Bữa cơm chiều muộn thơm bùi khoai sắn có bát tương bần đằm môi. Tất cả ám vào tâm hồn trẻ thơ, là cội gốc duy cảm sau này của Khuất Bình Nguyên “Làng nghèo quanh năm trầm lắng và buồn như núi Tản Viên” (tự thuật của KBN). Thế núi, hình sông đền chùa, miếu mạo, ghi tạc bao kỳ tích của ông cha, khởi nguồn dòng văn minh xứ Đoài: “Xứ Đoài mây trắng đồng làng/ Mây xanh đỉnh núi/ Mây vàng tình quê/ Lửa thiêng dựng bóng Ba Vì/ nghìn năm đứng đợi người đi không về” (Xứ Đoài)

Là con út của gia đình nông dân thuần phác, có truyền thống hiếu học, Khuất Văn Nga có tố chất yêu văn thơ, ham đọc sách từ nhỏ. Ngày học cấp 3 Sơn Tây và cả những năm tháng học Đại học Tổng hợp văn, Nga đã làm thơ viết văn. Do cá tính khiêm nhường tự liệu mình, Nga chỉ viết cho riêng mình, ít khoe với bạn bè và không dám gửi báo, mãi đến năm 1970 mới có bài thơ in đầu tiên.

Học xong khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Khuất Văn Nga không theo dòng mạch văn chương mà rẽ sang làm nghề kiểm sát, để kiếm sống và tồn tại. Công tác ở Viện Kiểm sát Tối cao Việt Nam, có hàm có chức, Khuất Văn Nga học thêm đại học Luật, làm tiến sĩ, theo nghề tư pháp cho đến ngày nghỉ hưu 2010. Dằng dặc thời gian là công chức, miên man trên giấy tờ văn bản, luật tưởng khô khan, xơ cứng nhưng lại thấm thía phận người và nỗi đau đồng loại. “Giữa thời buổi thị trường/ cái tâm sao cho sáng/ Cuộc đấu cần dũng khí/ Luật pháp phải am tường” (Thư gửi người công tố viên)

Nghỉ hưu, rời công sở, thanh thản tự do làm người công dân, Khuất Văn Nga quay lại mơ ước xưa: viết. Ông cầm bút, say mê gõ bàn phím, lật giở lại thời gian lục tìm những hoài niệm tuổi thơ, chiêm nghiệm cuộc sống đời thường hiện tại để khát vọng làm người đúng nghĩa của nó. Từ công chức, Khuất Văn Nga thành nhà thơ Khuất Bình Nguyên. Hơn mười năm, Khuất Bình Nguyên cho ra mắt bạn đọc 7 tập thơ dầy dặn: Người lữ hành thời gian (2009); Nơi thời gian trở về (2010); Cành tục ngữ hóa đá (2011); Bỏ quên trong rừng thư (2012); Hoa Hoàng Đàn nở muộn (2012) và 2 tập lý luận văn chương Giọt nước trong lá sen (2016); Giấu vàng trong gió thu (2019). Tập Giọt nước trong lá sen được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2016 là sự ghi nhận của đồng nghiệp và công chúng. Trong một trang viết, Khuất Bình Nguyên tâm sự: “Cũng như mấy năm đầu tôi rời xa chốn quan trường, có đôi lúc đã rơm rớm buồn tàn thu... Hóa ra đến được nơi ở của nàng thơ chỉ có trời xanh mây trắng để thanh lọc tâm hồn, gạt hết nỗi buồn nhân thế mà có kẻ thi nhân vẫn còn chưa dứt món nợ làm người”. (Đi theo kinh tuyến một đời thơ).

Có thể ví Khuất Bình Nguyên như một người lữ hành Xứ Đoài ở thế gian. Hồn mạch thơ của ông dồn hết về miền quê Xứ Đoài ruột thịt. Dù có đi xa, bay xa trên mọi miền trái đất, cánh diều thơ của Khuất Bình Nguyên vẫn neo đậu ở núi Tản, sông Đà.

Thơ về quê hương, Khuất Bình Nguyên thường lấy thể thơ lục bát hồn điệu dân tộc để nâng cánh cho những suy tư, dễ đọc, dễ hát thành ca:

Làng tôi sông chảy chia hai

Con gái dệt vải, con trai cày bừa

Gốc đa lá rụng bốn mùa

Có bà bán nước cổng chùa hắt hiu

(Quê nhà)

Những vần thơ tả thực, như vẽ trước mắt người đọc cảnh sắc thân quen của miền đồi núi trung du Bắc Bộ:

Lang thang mây trắng xứ Đoài

Chưa ra ngoài ngõ đã ngoài trăm năm

Người quê con mắt lá răm

Một đời yếm thủng nuôi tằm dệt tơ

(Hoa mảnh bát ơi)

Đất sỏi đá gan gà, một viên sỏi như một đời người lăn lóc dưới trần gian. Vần thơ như tiếng thở dài của ngọn gió thổi dọc bờ tre, sườn đê lối cũ đi về:

Sắc không mấy kiếp luân hồi

Mỗi viên sỏi một hồn người đơn côi

(Thầm thì đá ong)

Để chuyển tải những ký ức một thời gian khổ đói nghèo, Khuất Bình Nguyên cũng bung phá câu chữ để đựng được hồn cảm. Ngọn đèn chai ấy le lói trong mái tranh, soi bóng xuống lòng giếng sâu trong, dù đi khắp bốn phương trời vẫn rọi sáng hồn thơ:

Lá che kín mùa thu trên vòm trời giếng nước

Đất quê tôi nghèo

Đá ong dâng nước mát

... Cầm chiếc đèn chai ra bờ giếng cũ

Để rơi nỗi buồn vào gầu nước ngày xưa

(Chiếc đèn chai)

Máu thịt với quê hương là hòa hồn cảm với hào khí cha ông hơn 4000 năm dựng nước, giữ nước mà Xứ Đoài là một chứng nhân:

Điều lý giải vì sao xứ Đoài nghìn năm mây trắng

Bởi nỗi u hoài của tiền nhân chưa trọn vẹn gửi đời sau

... Mùa thu xanh chảy hiền hòa trên dòng sông Tích

Viền dải trường tồn quanh ấp nhỏ Đường Lâm

(Sự tích Phùng Hưng)

Gia đình là gốc của mỗi quốc gia, chỗ dựa bình yên của mỗi con người. Ở đó có hình cha, bóng mẹ, người thân neo đậu suốt đời trong tâm khảm chúng ta. Đó là đề tài muôn thủa của các nhà thơ khi gieo những vần thơ ân nghĩa, hiếu đạo, tình máu mủ. Đây là bóng hình người cha, người mẹ hiện hữu máu thịt trong thơ Khuất Bình Nguyên.

Cha nghẹn cơm buổi chiều

Ngàn ngạt mùa gió thổi

Từ làng ra đồng đã hết tám mươi năm

(Cánh đồng)

Nhớ những buổi chiều mẹ tôi khóc thầm trong mưa

Những trận mưa ngâu dài, những mùa thu dài lắm

Dài hết cả đời người

(Thư gửi một nhà thơ)

Mạch thơ kéo dài như thời gian, hồn thơ rộng bao la như nỗi nhớ. Những câu thơ hiện đại mà cổ điển trong trẻo tình người: “Mẹ già khoác mảnh áo tơi/ Cho tôi mơ tới chân trời mẹ ơi!”.

Yêu cha, yêu mẹ, yêu nhà, là để yêu đất nước, đồng loại, giai cấp cần lao trên trái đất xanh. Khuất Bình Nguyên đi nhiều dọc miền đất nước, bay xa đến thế giới muôn màu. Ông thấm nỗi thăng trầm của dân tộc Việt. Một đất nước nhỏ nhoi bên bờ biển Đông cuộn sóng, một dân tộc can trường có 4000 năm dựng nước giữ nước bằng mồ hôi máu xương:

Đất nước tôi

Như chiếc lá cỏ nhỏ nhoi

... xanh sống thác cho đời

Cho người đỏ ngực, cho trời bình yên

(Lá cỏ)

Cỏ mượt xanh trường tồn, dẻo bền như dân tộc này, như nước non này:

Cỏ mọc theo hình người

Chết không rời khẩu súng

Cỏ cao quá đời người

Ngút ngàn cỏ những vùng châu thổ

Cỏ thầm lặng ngày đêm vùi gió xuống

Nghe rõ trong cỏ mềm

Tiếng đồng đội gọi tên

(Ký thác vào trong cỏ)

Một hình tượng đẹp làm câu thơ vừa mạnh mẽ vừa bao quát được ý tưởng và tầm vóc của người viết. Sự so sánh đột khởi dựng tượng đài đất nước:

Đất nước đi như dáng đi của người gánh thóc

Vẫn lúa, vẫn khoai nhọc nhằn lục bát hai câu

(Thơ và thi nhân)

Hôm nay có những con Lạc, cháu Rồng một thủa cầm cày múa theo bầy chim Lạc, giương súng theo dáng Nỏ thần bươn chải kiếm sống bốn phương trời góc bể để nuôi nhà, nuôi nước. Ở đâu cũng là dân Việt:

Mấy nghìn năm cánh chim không mỏi

Hối hả nhịp chày giã gạo cầm tay

(Vũ điệu trống đồng)

Mấy thế hệ gánh gồng đi kiếm sống

Đồng bạc, bát cơm cuốc đất cùng trời

Tiếng Việt gọi nhường nhau đôi khi nghe đau nhức

Để cuối cùng một ước vọng:

Cánh đồng rộng đang chờ mùa vụ mới

Đi hết đường trái đất đến nhà thôi

(Kiếm sống)

Xứ Đoài và mùa thu là hai sợi chỉ vòng xuyên suốt hồn cảm và tạo lên vóc dáng thơ Khuất Bình Nguyên. Mùa thu Xứ Đoài vào thơ Khuất Bình Nguyên đắm đuối ký ức tuổi thơ có tiếng mưa rơi nhè nhẹ, cổng làng đầy lá vàng bay, tiếng mẹ gọi xa vời giữa chiều cổ tích:

Mây trắng cô đơn chở mùa thu đến hẹn

Bến bình minh lá đọng giọt Thiền

... Bến bình minh giọt Thiền xưa chẳng hẹn

Mùa thu đi qua mây trắng lại xa nhà

(Buổi chiều sen)

Giọt Thiền là giọt gì vậy? Có phải là giọt sương thu đọng trên lá sen bến bình minh đó sao hay là giọt đời trong veo thương cảm của phận người đọng lại trên mặt lá thời gian. Câu thơ đầy ẩn dụ, trắc ẩn. Đó là nguyên nhân để thơ suy tư chiêm nghiệm:

Xao xuyến nở bảo tôi đừng khép cửa

Ngọn nến thời gian trăn trở phận người

(Hoa Sứ)

Mong nghe một tiếng trống thu không, mong hết việc đời mà thanh thản đi cùng nàng thơ, sự cứu rỗi đời người:

Chẳng còn tiếng trống thu không

Cả đời theo chữ nhòe trong bấc đèn

... Xin làm ngọn nến đêm đông

Lửa khêu dậy tiếng thu không cuối chiều

(Thu không)

Chỉ còn thơ thôi, chỉ còn tình yêu cuộc đời, chỉ còn ấm êm gia đình. Khuất Bình Nguyên, người lữ hành đã đi vào siêu thực của thơ ca:

Cha đã già khép cửa làm thơ

(Nói chuyện với con gái)

*

Dòng mạch văn chương của Khuất Bình Nguyên trong 10 năm có những thành công đáng nể. Ngoài thơ ông còn viết lý luận phê bình chủ yếu là chân dung văn học và đàm luận văn chương, xuất hiện đều đặn trên các báo. Những trang viết lý luận có nghề, minh triết nhiều duy cảm, duy lý, duy mỹ. Cứ đọc hai tập Giọt nước trong lá sen và Giấu vàng trong gió thu ta cảm được cái tình, cái tâm của Khuất Bình Nguyên với các nhà thơ, nhà văn hiện đại Việt Nam. Không cao giọng về các phong cách phê bình, không sa đà vào văn bản, Khuất Bình Nguyên với sức đọc, tìm hiểu cặn kẽ để dựng được những gương mặt sống động của các văn tài hiện đại. Từ câu thơ của Chế Lan Viên trong Di cảo, Khuất Bình Nguyên đã bình: “Người ấy còn mang câu hỏi mùa thu mắc nợ thi ca từ buổi theo nhà thơ đi nhặt những chiếc lá vàng năm trước để chắn nẻo xuân về đến tận bây giờ còn chưa xong” (Người muôn năm ở Viên Tĩnh Viên). Viết về Trần Mai Ninh, Khuất Bình Nguyên muốn qua đó tạc tượng đài thế hệ nhà văn chống Pháp “Điều quan trọng là nhà thơ Trần Mai Ninh được đứng bên các danh tài văn chương kiệt liệt của đất nước đã được chính thể mà ông chiến đấu đến hơi thơ cuối cùng vì sự sinh tồn của nó ghi nhận. Trần Đăng, Nam Cao, Trần Mai Ninh... xứng đáng được phong anh hùng trên mặt trận văn nghệ thời chống Pháp” (Để võng ai nằm).

Tôi lại nhớ dạo cuối thu năm ngoái Khuất Bình Nguyên đưa tôi về thăm làng Cầu Chò, đi men theo bờ con sông chia làng làm hai. Con sông khởi nguồn từ một vực thẳm sông Hồng, con sông mẹ huyền thoại của đất Bắc, chảy qua những miền quê xứ Đoài cần lao, nghĩa cả. Con sông đang chảy vào miền mùa thu mây trắng, chảy vào mênh mông, chảy vào hư không, chảy vào siêu thực của thơ Khuất Bình Nguyên. Đó là niềm hư ảo của thơ ca, của người lữ hành gánh mùa thu xứ Đoài mây trắng:

Tôi lang thang trên cánh đồng

Chỉ thấy gió thì thào với cỏ

... Đường trần xa xôi

(Hồi tưởng giấc mơ)

Rồi sẽ có một ngày, như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từng dự cảm khi nói về Khuất Bình Nguyên: “... và trong cuộc trường chinh không mệt mỏi và đầy khát vọng, sẽ một ngày chúng ta đến được mảnh đất đích thực của CON NGƯỜI…”.

Có một chiều giác ngộ

Cỏ dẫn đường bất chợt gặp hoa sen

(Hoa sen trắng)

Nguồn Văn nghệ số 19/2020


50 năm Văn học Đà Nẵng: Nhìn lại để vươn tới đỉnh cao

50 năm Văn học Đà Nẵng: Nhìn lại để vươn tới đỉnh cao

Baovannghe.vn - Với sự kế thừa một truyền thống Văn học quý giá và với những tiềm năng, những triển vọng đã và đang có, các Nhà văn Đà Nẵng và Hội Nhà văn TP Đà Nẵng sẽ có một bước phát triển mới, có bước bứt phá để vươn đến đỉnh cao
Tiếng thơ của hai cha con Chế Lan Viên, Phan Thị Vàng Anh

Tiếng thơ của hai cha con Chế Lan Viên, Phan Thị Vàng Anh

Baovannghe.vn - Bộ sách giáo khoa của nhóm Cánh Diều có tác phẩm của hai cha con đặc biệt. Đó là quyển Ngữ văn 11, tập 2 có trích bài thơ Tình ca ban mai của Chế Lan Viên (1920-1989); còn ở Tiếng Việt 2, tập 1 có trích bài thơ Mèo con đi học của Phan Thị Vàng Anh (sinh 1968).
Mưa trong mắt mẹ - Thơ Trần Đức Tín

Mưa trong mắt mẹ - Thơ Trần Đức Tín

Baovannghe.vn- Phố phường mưa lạnh mềm áo bụi/ bao mùa rồi chúng con vẫn ra đi
Quán trọ chân đồi - Truyện ngắn của Phạm Xuân Hùng

Quán trọ chân đồi - Truyện ngắn của Phạm Xuân Hùng

Baovannghe.vn - Quán trọ nằm dưới chân một ngọn đồi, đồi thấp toàn cỏ tranh liền kề với những dãy núi liên hoàn của dãy Giăng Màn... Đường đến quán trọ phải qua con sông có tên rất hay, sông Tùy Duyên. Chắc Ngộ cũng tùy duyên mà bỏ quê quán lên đây mở quán trọ.
Tin đồn. Truyện ngắn của Erskine Preston Caldwell

Tin đồn. Truyện ngắn của Erskine Preston Caldwell

Baovannghe.vn- Mùa thu năm đó, lần đầu tiên sau hai, ba thập niên, không có ai phàn nàn về vị thủ quỹ hay tiền bạc của thị trấn. Sam Billings được biết đến như là người trung thực và cũng vì là một doanh nhân thành đạt nên mọi người đều biết rằng ông ấy sẽ giữ cho sổ sách được minh bạch, rõ ràng.