Dò theo bước tiến đường lưu của ông, bình sành tranh biết rằng ở Việt Nam đang còn vài bức của ông. Từ Mỹ, từ Pháp, từ Australia, từ Canada… bằng thư hoặc bằng điện, họ gửi về những nhà mua bán tranh ở Việt Nam, bằng mọi giá phải tìm mua cho được tranh của Foujita, đặc biệt là tranh con mèo. Trên thế giới, bất kỳ họa sĩ nào cũng có một nét độc đáo, mang theo dấu ấn nghệ thuật của chính mình. Nét độc đặc của Foujita là nét vẽ con mèo sắc bén.
Tôi có thể may mắn là người kiến trúc săn lùng này. Từ Sài Gòn có người bỏ tiền túi đi tàu tốc hành ra Hà Nội. Cao hơn và nhanh hơn, có người đi máy bay. Trong thành phố Sài Gòn thì những chiếc hon-da chạy như ma mui, họ đến các cửa hàng ở Đồng Khởi, vào các ngõ hẻm của những nhà chơi tranh. Cuối cùng tất cả đều trở về với hai bàn tay không, lơ láo, lắc đầu, gian nan hơn mò kim đáy biển.
– Vậy bức tranh con mèo của Foujita đang ở đâu?
– Đang nằm trong tay tao chớ ở đâu mầy?
Thằng bạn của tôi ngước mặt cười đắc thắng. Thằng Nam, Nguyễn Thành Nam, người có tiếng trong giới làm ăn đất Sài Gòn, nó cười từ dưới bụng cười lên, hai hàm răng há to. Cũng chưa thấy, nó bổ sung:
– Ai trồng khoai đất này? Có đầy nhớ chuyến đi Hà Nội vừa rồi của ta không?
– Nhớ.
Mỗi lần Nam đi đâu xa, tôi cũng biết trước đôi ba ngày và trước khi đi bao giờ hai đứa trẻ cũng ngồi uống rượu với nhau. Lần đó, Nam bước vào cửa lúc tôi còn ngủ.
– Có việc gì vậy Nam?
– Tao đi Hà Nội.
Tôi rẽ mặt:
– Đột xuất.
– Có vé chưa? – Tôi hỏi.
– Chưa. Nhưng không có gì. Nó có cửa cánh thì tao cũng ngoắc nó trở lại rước.
– Cần đưa ra sân bay không?
– Hỏi. Xe đang chờ tao.
Mặc dầu chưa có vé, nó vẫn bay chuyến đầu tiên. Nó có cách của nó. Và tôi nghĩ, nếu con người không có cách tính như nó thì không ai có thể giành chiến thắng trong cuộc đua này.
Tôi với nó là bạn lâu đời. Năm 1948, sau ba năm kháng chiến chống Pháp, hai đứa trẻ gặp nhau ở một ngôi trường nằm ở mé rừng U Minh, bên những con kinh nước táo đỏ: trường bổ túc văn hóa dành cho thanh thiếu niên từng tham gia chiến chiến. Tình cờ hai con cùng quá giang sơn về đất U Minh.
– ở đâu về? – Tôi hỏi.
– Bộ đội.
– Go bộ đội được mấy tháng?
– Sao lại mấy tháng. Hai năm, từ bốn sáu.
– Năm nay bao nhiêu?
– Mười sáu.
– Ham vui dữ ha!
Nó trợn mắt:
– Ê! Sao lại ham vui! Yêu nước hoàng gia.
– Lính văn phòng hay ra mặt?
Nó lặp lại, nói như hét:
– Sao lại văn phòng?
Nó có mái tóc hơi thở sóng, mắt sâu, mặt hơi vuông, sáng là người góc cạnh, lông mày cao, rắn chắc nhưng lại nhỏ con. Tôi nhìn khắp người nó, biết tôi không tin, nó nặng:
– Thấy mầy nhìn tao, tao biết mầy không tin, không tin tao vác nổi cây súng phải không?
– ờ…
– Đúng là tao không mang súng nổi.
– Bộ đội mà không mang cây súng nổi thì làm gì?
– Còn hơn cầm súng.
Tôi trố mắt:
– Truyền tin của chỉ huy, làm liên lạc, chưa biết?
– Học xong lớp mấy rồi đi bộ đội?
– “Xéc-ti-fi-ca”.
– Ở trường học có khác không?
– Không bao giờ dưới lớp năm. Học “buộc”.
– Học có lương.
Biết nó không đạt đẳng cấp cao trong kỳ này, tôi bắt đầu ngán nó. Hỏi ra thì hai con cùng sinh năm Mùi. Vào trường, hai đứa trẻ ngồi chung bàn. Hai năm, hai Chiếc giường sát bên nhau, chia suốt nhau từng mảnh ăn, mặc cả quần áo của nhau, hiểu nhau từng chân tơ lụa tóc, tưởng không rời nhau.
– Sao sáng hôm đó, mẹ không nói đi tìm tranh Foujita?
– Mèo mèo, tao thì mèo, nói sao được!
Rồi nó hào hứng kể lại với tôi:
– Tao bay ra Hà Nội bất ngờ như vậy, tất nhiên phải giá cao. Tới Hà Nội, tao bao ngay một chiếc xe. Cần nhớ không phải là bao xe hơi đâu, tao thuê một chiếc xích lô, với giá cao gấp ba lần. Trước nhứt là gặp đệ tử ngay trong buổi sáng hôm đó. Tao biết ngày xưa, trước khi Nhật quân vào Đông Dương thì đã có người đi trước rồi. Người đi trước là ai? điệp điệp báo?
– Tất nhiên rồi! Ngoài ta còn ai nữa? Văn hóa và thể thao. Trong số đó có nhà đồ họa Foujita. Khi ông ta đến Hà Nội, tao đoán chắc chắn không thể nào khác, ông ta phải chơi với một vài họa sĩ Hà Nội. Đúng boong như vậy. Foujita đã kết nối bạn với một họa sĩ. Đã là bạn thì thế nào tranh của ông ta cũng còn đó. Đó là lợi ích đầu tiên của tao. Nam không tập kết ra Bắc, nhưng Nam biết và hiểu Hà Nội hơn tôi, mặc dù tôi ở Hà Nội đến mười hai năm.
![]() |
| Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest |
Ngày về Sài Gòn, tôi nhớ nó, muốn tìm, nhưng nghĩ biết nó còn sống hay chết, ở đâu.
Bất ngờ nó đến nhà tôi vào một buổi chiều mưa. Từ năm 1954 đến năm 1975, hai mươi bốn năm, tuổi hơn bốn mươi, hai thằng tóc đã điểm bạc. Chúng tôi “a” lên một tiếng rồi ôm ấp nhau.
– Mave còn sống? Tôi hỏi.
– Cũng tưởng là đã chết. Cũng tưởng tượng mầy đất cày đâu đó trên chiến trường. Chuyện dài lắm. Tao biết mầy quá bận rộn việc nhà và đang “truy lùng kỷ niệm” phải không?
– Mầy đi guốc trong bụng tao.
Đứng ngay trước cửa, chưa đáp ứng vào nhà, mái tóc dợn sóng của nó rũ dài xuống qua cơn mưa.
– Tao trước sao, giờ vẫn vậy. Nếu không có sai sót và cần thiết thì bữa trưa nay tao chưa tới. Trước nhờ, sau mới ghé thăm. Tôi cảm động trước sự thật chân thật của nó.
– Vào nhà đi rồi nói.
Vào nhà vẫn không có áo mưa.
– Tao bây giờ là phổ biến dân Nam Bộ. Còn lại đầy đủ là dân tập hợp là dân ở R về, mầy có thể hơn tao. Tao sắp có một chuyến đi, nhưng phường khóm, thứ mấy người biết tao. Thấy nhà tao giàu – ê tao giàu lắm nghe – họ nghi tao là ngụy. Tao khai lý lịch, trước đây là Vệ binh quốc gia, từ năm 1950 đến trước ngày tập kết, tao là cán bộ của Phòng tham mưu phân vùng miền Tây Nam Bộ, họ không tin. Tao lại sơ ý, tao viết tắt PLKMT – cắt nghĩa thế nào họ cũng không hiểu. Tao nghĩ phải dè tao đi tập kết luận như mày! Mà mày biết tại sao không đi đến tập tin hay không?
– Lúc đó lu bu quá, tao phải đón gia đình. Ra Bắc tao đã tìm được mầy, sau mới biết mầy ở lại. Tao hỏi hoài nghi không hiểu tại sao.
– Có mẹ gì đâu. Tao cũng muốn đi, nhưng tao lỡ hứa hôn với một con nhỏ. Tao xin cho nó đi, nhưng nó không đủ tiêu chuẩn. Tao cũng không đủ tiêu chuẩn cho vợ cùng đi. Nhớ không, lúc đó, cấp tiểu đoàn trưởng, tức là cấp đại úy bây giờ mới có tiêu chuẩn, còn tao, tao là anh lính quèn.
– Bây giờ vợ con ra sao?
– Hủy bỏ câu hỏi. Tất nhiên, sau đó, se khít làm đám cưới, hai đứa trẻ kéo nhau về Sài Gòn. Có một đứa con, tao bị bắt. Sau năm năm câu lạc bộ đi với anh chàng khác. Trái đất như lắng xuống dưới chân tao. Tao độc thân cho đến bây giờ, nhưng đừng làm tổn thương tao. Thằng có vợ chỉ biết một người đàn bà, còn thằng độc thân như tao thì không biết bao nhiêu là đàn bà. Chuyện này tao có lỗi với Cách Mạng… ha… ha! – Nó khô giọng cười, cười mà nghe chua xót. Tôi nhận ra nỗi buồn trong đôi mắt của nó. Mắt sáng rực rỡ như có đám mây che. – Từ đó tao mới ngẫm ra một điều: tình yêu! Một trăm người đàn bà mà mình không yêu, thưa cô! Nhưng thôi – Vừa nói, Nam vừa móc trong túi áo bản lý lịch – Bạn xác nhận cho tao, mai lấy mộc quan đóng vô, được hôn?
– Đâu có gì khó.
– Thôi, bữa khác nói chuyện nhiều, bây giờ tao phải đi.
– Mầy đi bằng gì, máy bay?
– Không! Máy bay hiện chưa bán vé, phải đi bằng giấy giới thiệu. Tao thì ai giới thiệu, tao đi bằng xe hơi.
– Xe đò?
– Đâu. Xe của tao. Và lái xe. Bạn tưởng tao không có xe hơi, tao không biết lái à?
– Bạn ghi từ đây ra Bắc?
– Đồ cơm sườn. Thôi tao về – Nó đứng dậy, không ra về ngay mà nói tiếp: – Mẹ biết lúc hai vợ chồng tao về Sài Gòn tao sống như thế nào không. Ở đậu trong một cái chuồng heo ở Xóm Củi cái chuồng heo nghĩa địa. Tao thuê cái chuồng heo cũ, rồi xây nên vách, mái lợp, kê vài mảnh ván ngăn không có một cái giường. Mầy có ý tưởng nổi, nhỏ con như tao mà khi nằm, hai cái chân cũng lũ ra ngoài vách ngăn. Nhiều lúc nghĩ đến những thằng tập kết như cơn lũ mà phát ghen. Có một đêm mưa đầu mùa phân heo lâu đời dưới cái nền đất bạo dậy lên muốn bể đầu. Tao bật ngồi dậy. “Đ.má nó, tao phải làm giàu!” Coi như đó là lời tuyên bố của tao. Tao sẽ trả thù xã hội Sài Gòn này không phải sử dụng súng đạn mà bằng đồng tiền. Nghe tao hét, vợ tao cướp mình ôm hai vai tao: “ Thôi anh đừng mơ. Cái thân người kháng chiến ở đất này, trước hết là phải biết trốn anh à. Như trượt cũng được rồi!” Lúc đó đột nhiên nghĩ “túp trà tranh với hai quả tim vàng” chỉ có giá trị trong thơ mà thôi bạn ạ! Thôi chuyện còn dài lắm, đi Hà Nội về sẽ kể tiếp…
Chuyến đó, từ Hà Nội về, nó đến tôi, mặt mày rạng rỡ:
– Tao có một thói xấu không thể sửa được là hay chơi nổi! Có biết bài hát Nối vòng tay lớn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không? Từ Bắc vô Nam… Ông ta mơ, ông ta hát, còn tao thì đi trước. Chỉ nghĩ đến vậy là tao đủ thấy sướng rồi.
– Thấy miền Bắc ra sao?
– Tuyệt! Đẹp, đẹp, đẹp không bút mực nào nổi bật. Đúng là nguồn gốc của dân tộc. Tao nghĩ là tao đi chơi cho thỏa chí, không ngờ lại có lời, lời to, to hơn cả một chuyến buôn…
Đúng là thời gian vận hành ạ! Trên đường ngao du, tao dừng xe đạp vào trụ sở của một cơ quan để thăm đường. Bất ngờ người ta tìm thấy ba bình lục bình của Khang Hy để trên một cái tủ. Ba cái lọc như hút hết tâm trí tao. Nhìn cái màu men, tao biết cái màu này đã thắng cả thời gian rồi. Tao hỏi thăm, không ngờ ông thủ trưởng cơ quan bảo vệ tao:
– Anh hỏi cái nợ ấy làm gì?
– Sao của nợ? – Thật ngạc nhiên, hỏi lại.
– Có gì đâu, lúc Mỹ đánh bom, trên cho mấy cái bình sơ tán về đây. Hòa bình thiết lập lại, chúng tôi có gửi công văn xin trả mà tiếp tục đến nay họ chả nói gì. Không phải nợ thì đó là cái gì. Ô, ông đi chiếc xe đẹp quá. Xe nước nào vậy – Ông thủ trưởng đột nhiên nhìn ra sân tìm thấy chiếc nhẫn của mình, liền tấm tắc:
– Xe của Nhật.
– Thế đấy. Cho tôi xem qua một chút nhé.
Miền Bắc đang hè, nóng như lửa táp – Xe có máy lạnh, khi ông bước vào xe, ông kêu “Sao mát thế ông? Mát như trời lập đông, thích thật…”.
Lướt ông ta bon bon trên đường cái, tao hỏi:
– Đồng chí có thích loại xe này không? Nếu đồng chí thích thì tôi sẽ tặng xe này cho đồng chí, còn tôi, tôi xin lấy ba cái bình gốm của đồng chí.
– Ông đổi chiếc này với ba cái của nợ à?
– Vâng!
– Đùa hay thật đấy đấy đồng chí miền Nam?
– Ai lại đùa với đồng chí thủ trưởng.
- MỘT! Hay nhỉ? Được! Đêm nay đồng chí nghỉ đâu?
– Tôi muốn nghỉ ở khách sạn.
– Khách sạn làm gì, về nhà khách nhà tôi nghỉ. Sáng mai trình bày cơ bản, tôi lấy ý kiến kiến trúc.
– Đồng chí không được quyết định à!
– Sao lại không, nhưng tôi muốn tập thể chịu trách nhiệm.
Tao phập phồng suốt đêm, cứ mơ ba cái lục bình thời Khang Hy.
Sáng hôm sau, biết ông trưng bày vào lúc nào, mình vẫn đang nằm trên giường, gần nghe tiếng gõ cửa, tiếng gõ cửa mã hóa hả. Vừa bước chân xuống giường, cửa sổ đã bật ra. Ông ta vừa vào cửa đã reo:
– Trí trăm phần trăm đồng chí ạ!
Thế là tao để chiếc xe lại, tao bay về.
– Mầy cày ba cái lục bình ấy về!
– Đời nào tao chịu khó như vậy. Nhờ một nhân viên của ông ta đóng thùng, và nhờ cả người của ông ta áp tải bằng tàu biển vào bến thuyền. Mọi sở hữu tao chịu hết. Cậu nhân viên của ông được vào Sài Gòn, không phải tốn một đồng xu, cậu ta vui hết lớn. Tao đã về cả tuần nay rồi, nhưng chưa đến mầy vì ba cái lục bình.
– Tới chưa?
– Rồi, hồi chiều qua. Tao quý trả ơn bạn nhân viên áp tải bằng một bữa tiệc ở khách sạn. Thật sự tội lỗi. Cậu ta không hiểu mình đang ở đâu nữa. Khi cậu ta vừa xong cơm chén thì cô phục vụ mặt mày son phấn, dầu thơm sự say mê, chực một bên, hai tay nâng lấy cái chén, xúc cơm cho người ta. Mẹ biết cậu ta cảm tưởng sao không? – “Bữa nay em như là vua bác ạ!”.
– Ba cái lục bình so với chiếc xe hơi giá trị của mầy thế nào?
– Giá trị phải bằng Năm xe của tao. Nó lại có lời giải ở chỗ này. Nếu tao mang xe về, phường khóm sẽ dòm ngó, bị quy là tư sản, muốn yên thân thì phải hiến. Còn ba cái lục bình đó, họ coi là ba cái bình bằng đất… Đó, chuyến đi đầu tiên của tao ra Hà Nội là vậy.
– Bạn có biết xem bản đồ cổ không?
– Ở cái đất Sài Gòn này, tao không tưởng là sư, nhưng nói là bậc thầy.
Tôi đưa ra tên một nhà nghiên cứu, tác giả nhiều cuốn sách viết về đồ cổ nổi tiếng ở đất Sài Gòn hỏi nó:
– Mầy với ông ta, ai hơn ai?
– Khó nói, cũng không nên so sánh. Rất khác nhau. Đứng trước một món đồ cổ nào đó, ông ta nghiên cứu rồi ông ta viết. Nếu ông ta nhìn sai, viết sai, ông ta đếch mất gì, có thể đính kèm chính. Dù tao, tao ấy à, khi tao nhìn nó là tao phải mua và phải bán. Nếu tao đánh giá sai, tao sẽ mất, mầy nhớ là mất không nhỏ đâu. Trí tuệ của ông ta đẻ ra chữ, còn trí tuệ của tao thì sinh ra tiền.
– Bậc học nghề này từ bao giờ?
– Junsu qua các lớp học. Kể cũng dài. Lúc này tôi vào tù. Ờ, mầy biết tao bị bắt không?
– Sao?
– Nhớ thằng Điền ngồi dưới tao với chưa đầy một bàn? Nhớ à? Nó bị bắt, chịu không nổi, nó khai tao. Nó cũng không được ghi lại. Tao đi trên nhãn. Mấy năm đầu ở Sài Gòn, tao toàn đi bộ. Đi bộ để nhìn đời sống, để hiểu nhu cầu của người dân. Nhờ đó mà phản đối.
– Phất như thế nào?
– Chuyện bị bắt kể sau, còn chuyện đi bộ, có chuyện như thư. Một hôm tao ra chợ Cầu Ông Lãnh mua một con cá lóc để kho tiêu cho vợ. Bả vừa mới sinh con trai. Con cá lóc gần hai ký, bằng cái bắp chuối của tao. Xỏ sợi dây lá qua mang cá, tao xách toòng teng. Lẩn sâu thế nào, tao hoàn toàn vô phòng bán cá lia thia. Người chơi cá cứ vào cái keo con cá xiêm. Con cá Xiêm xòe cánh rực rỡ. Tao nghe người ta trả giá mà hết hồn: Bảy giờ, rồi đêm trăng, chín sáng. Thằng cha bán cá vừa đưa tay xuống một cách dứt khoát: “Một trăm! Không giảm một đồng xu”. Con cá lóc ở tay tao, lớn bằng chuối, chỉ có hơn hai đồng. Còn con cá lia thia này lớn không bằng ngón tay cái mà một trăm đồng.
A ha! Hóa ra là đồ chơi hơn đồ ăn. Tao tỉnh như tỉnh. Muốn làm giàu phải bán đồ chơi chớ không bán đồ ăn mầy ạ! Nói rộng rãi là phải lăn lộn trong thị trường văn hóa. Sản phẩm văn hóa là những món hàng vô giá. Từ đó tao nghĩ đến sách, đến tranh, đến đồ cổ… Sau đó, tao làm đầu nậu phát hành sách. Sách gì có lời khuyên mầy hiểu không? Sách cho trẻ con. Móc túi trẻ con dễ dàng hơn móc túi người lớn. Tao bắt đầu khác từ đó rồi tao thuê nhà ngoài mặt tiền. Tao như người tìm được cái đầu mới của đời sống xà bồ của đô thị Sài Gòn. Cứ như vậy mà phăng, phản lên ý mấy hồi.
– Trở lại dịch vụ bị bắt.
– ờ… Tao đi… Có hai thằng mang kiến trúc cứ kè theo. Tao mài nghi, định ăn nhưng chưa tìm được một hẻm nào. Một người gõ lên vai tao bằng hai ngón tay. Quay lại tao đã thấy nó đưa cái thẻ Tổng cảnh sát. Cái thẻ nằm trong lòng nó, kiểu như nó chào mình. Nó bắt tao nhẹ nhàng lịch sự như vậy. Rồi nó gọi quy tắc xi. Tức mình không biết nói gì, tao bảo: “Nè, thằng nào kêu tắc-xi, thằng đó trả tiền nghe”. Nó nhìn tao, bạnh môi, cười rất đểu.
– Tôi bị buộc tội gì? – Lên xe, tao hỏi.
– Ở ẩn, anh em đồng chí của anh đông lắm. Hôm nay qua mấy show chi bộ, thiếu anh, có người nhờ tôi đi tìm.
Sau đó mình đã được khai báo. Vào tù gặp thằng Điền, chính nó khai tao. Nó bảo vệ như êm dịu nghe được không? “Để mầy ở ngoài tao sợ mầy hư”. “Tao hư hồi nào?” "Sắp làm tư bản mà không hư à? Vào đây để rèn luyện. Nhà tù là trường đại học của Cách mạng, mẹ quên à?". Giận mà phát tức cười.
Vào tù, không ngờ ông thầy dạy chữ nho, tao bắt đầu học tiếp. Này bạn coi.
Nó đưa ngón tay trở lại cho tôi xem.
– Kem tay của tao thiên lì hết rồi. Mỗi lần học là mỗi lần tao ngón tay rung viết xuống nền xi-măng của nhà tù. Tao học gần hết chữ của ổng thì tao ra tù. Từ đó tìm thấy bất kỳ chỗ nào có chữ Hán là tao đọc. Tao đọc chữ Hán trên các cổ đồ. Tao đọc tiểu thuyết của Quỳnh Dao, của Kim Dung qua chữ Hán. Thấy ăn, và cũng phải nói là tao thấy vô hại, tao vừa tổ chức dịch, vừa in, vừa phát hành. Sau, tao mua nhà in và vân vân… Người ta có tiền người ta mua vàng. Ở đất Sài Gòn câu ngày trước, giới mua vàng là giới không biết làm ăn, là giới nhà giáo, giới công chức. Nếu tiền của tao mà để mua vàng thì hôm nay, vàng của tao phải cao bằng cái cột đèn ở ngoài path. Lịch sử sang trang, những thằng như tao bị phá sản, còn giới mua vàng giữ làm thì bây giờ lại phây phây.
Ngoài những câu chuyện Nam kể với tôi, tôi còn biết về Nam khối chuyện bạn nó kể lại. Giới làm ăn ở đất Sài Gòn cũ nhắc đến tên Nam vừa ganh vừa phục. Trước năm 1975, Chợ Lớn có một phòng tranh cổ Trung Quốc gồm những họa sĩ nổi tiếng của Trung Quốc như Từ Bi Hồng, Tề Bạch Thạch, Nhiệm Bá Niên, Cao Kỳ Bội, Văn Trưng Minh, Mẫn Thọ Bình…
Những bức tranh thủy mạc, non nước hữu tình, những bức tranh vẽ thiết kế, vẽ ngựa, vẽ chim, vẽ cá, tôm… Giá tranh quá cao, không ai với tới. Đến ngày đóng cửa, tưởng không bán được bức nào thì Nam xuất hiện. Tự mình lái chiếc xe To-yo-ta, Nam dừng lại trước cửa, ăn mặc xềnh xoàng, quần tây xám, áo sơ mi trắng, không áo vét, không cà-vạt. Liếc qua giá cả, tính toán một lúc, sau cùng Nam gọi chủ phòng tranh tới, một vòng tay:
– Tôi lấy hết.
Chủ phòng tranh tưởng mình nghe hoang, miệng há mồm:
– Ha! Cái gì ha!
– Tôi mua hết, chưa rõ? Gói lại nhà cho tôi, rồi lấy băng thu tiền.
Phòng tranh sạch sẽ ngay hôm nay. Có người cho Nam là gà, có người bảo anh điên.
– Tao không điên, cũng không gà. Theo dõi tình hình chiến sự, tao thấy Mỹ đã cút rồi, tao chắc mẩm ngụy sẽ nhào. Nó nhào, tao hỏi Bạn, đồng tiền của nó để làm gì? Nên, làm cho kinh tế không phân tách giá trị chính như vậy, chưa rõ ràng!
Sau đây, những bức tranh của Nam đối với người đi nước ngoài trở nên quý hiếm đến kỳ lạ. Có người ta trả đến mười sáu, mười hai cây vàng, mà cái vốn của Nam chỉ ở dưới một cây.
– Người ta săn mua, trước đây nhất là nó quý, cái giá trị của nghệ thuật không có giá nhất định, là cái giá tùy thời trang, tùy tâm. Cái gì mà thích rồi, bao nhiêu mà chả được. Thứ hai, dù người ta đi mang vàng đi hay không lọt vào, hay không tiện, còn là một bức tranh, chỉ cuốn lại một cuộn, cầm tay, thật nhẹ nhàng. Nếu nhà chức trách có ý, có hỏi thì bảo là kỷ niệm của ông bà. Bức tranh ấy chào ra ngoài, nếu gặp thời gian, họ sẽ bán gấp đôi gấp ba. Có lời đó, nhưng không phải bức nào tao cũng bán. Mẹ biết tao, tao là thằng vừa mua bán lại vừa mê tranh. Bán đi một bức là lòng tao bị mất đi một cái gì đó rất đau. Tao nhớ, cái tương tư…
Trở lại bức tranh con mèo của Foujita, tôi hỏi:
– Sao mầy thích bức tranh con mèo của Foujita?
– Người không biết Foujita thì phải loại ra danh sách người chơi tranh. Một cái núi cao của phương Đông. Tao biết Foujita từ lâu nhưng chuyến đi vừa rồi, kể tình cờ. Tên ông ta là Foujita Tsuguhara, tên thánh là Lê-ô- na. Sinh năm 1886 tại Tô-ky-ô, mất ở Duy-rích- Thụy Sĩ năm 1968, vừa là họa sĩ vừa điêu khắc gia Pháp gốc Nhật. Thành công và nổi danh tại Pa-ri từ năm 1915 với đường nghệ thuật vừa hiện thực vừa bay bổng thơ ca. Ông kết hợp hai phương pháp một cách nhuần nhuyễn và tài tình. Người ta gọi ông là Pi-cat-xô của phương Đông. Nè, tao nói đây là nói theo tự điển La-rút đấy nhá! Năm 1941, Foujita hát Đông Dương, mở một phòng triển lãm tranh tại Hà Nội cùng với nhiều họa sĩ Nhật. Cuộc triển lãm có ở ca-tơ-lô nhỏ để tặng cho tự do. Lạ là ông ghi tên trước cái dấu ấn 1 đồng bạc tiền Đông Dương, bìa sau của ca-tơ-lô ông vẽ hình một con mèo bằng bút máy. Bìa ngoài ca-tơ-lô có in hình một con mèo nhiều mật của ông, bức đó nằm trong bảo tàng của Nhật Bản. Với con mèo, người ta thường nói “Trống như mắt mèo…” thể hiện chất trong của mắt mèo qua nhiều trạng thái bằng chất liệu thủy mặc, trên thế gian này tản có mấy ai? Mà cho đến ngày giờ này, ngôi vị vua vẽ mèo không họa sĩ nào thay thế được.
– Sao không vẽ con gì dễ thương hơn mà vẽ con mèo?
– Đó chính là ẩn số, là bí quyết của tâm hồn người nghệ sĩ. Tao cũng tự hỏi như mầy. Trong số thú vật nuôi trong nhà, so với con chó thì sẽ không dễ thương bằng. Với con chó, mình đi đâu về, nó vui, còn con mèo thì nó dửng lẻ. Và nó còn có nhiều cái đáng ghét nữa. Đến mùa động vật của nó, nó cứ kêu cứ ré lên trên mái nhà, kêu bắt nhau, ầm ầm gừ cấu trúc gái, rồi kêu rú lên nghe lạnh đến xương sống, gây động động cả xóm. Nhưng khi bắn thì nó nhẹ nhàng như cái bóng, y như nhà y-ô-ga đã luyện đến cấp độ phun, nó nén cả hơi thở, nó ngâm hết tinh lực vào bên trong, để cho con ảo tưởng như trên đời này không có loài gọi là mèo, rồi bất thần nó phóng tới. Con mồi không phản ứng, bỏ vía như rời xa xác thực. Bắt được rồi, nó chưa nắng ăn, nó còn đào, còn vui, thảnh thơi rồi bắt, bắt rồi thảnh thơi, nó vui trước sự sợ hãi của cuộc trò chuyện. Ác! Nhưng con mèo của Foujita thì rất dễ thương. Ông đã vẽ nhiều con mèo chơi đùa với nhau, chơi đùa với đồ vật, rất dễ thương. Dễ thương đến nỗi, con mèo đâu mà thoáng có, thế mà cái sành sành tranh cả năm châu đều nháo nhác đi tìm mèo của Foujita. Có lẽ nghệ sĩ của ông có sức làm mờ, làm mất đi cái xấu, cái ác của mèo, và ông chỉ thấy cái đẹp và nâng cao cái đẹp ấy, đó chính là tâm hồn của ông. Tâm hồn của họa sĩ là tâm hồn của dân tộc. Tâm hồn của Foujita là tâm hồn của phương Đông trong bút bút tài hoa của ông. Từ đó, đôi lúc tao nghĩ, hình như người nghệ sĩ không chấp nhận cái xấu. Mà cái xấu và cái đẹp lại song tồn tại với con người. Và đó là bi kịch của một nghệ sĩ?
Chính vì con mèo của ông mà tao đi Hà Nội, sau khi đài BBC báo cho biết năm nay là kỷ niệm năm ngày sinh của ông. Ra Hà Nội tao tìm ngay nhà của một họa sĩ mà ngày xưa đã kết bạn với Foujita, ông đã mất, chỉ còn con cháu. Nhờ một người chơi đệ quy, không thể ngờ rằng người dùng hoạt động đã biết của tao. Thế mới chết!
– Người ta biết mình là may, sao lại chết?
– Vậy là tôi chưa hiểu rõ. Người ta thường biết tao là biết ở điểm này: tao là thằng giàu, mua cái gì cũng cao, bán món gì cũng cao. Món nào tao hỏi mua có nghĩa là món đó là đồ quý. Biết như vậy phải đánh hướng dẫn. Tao nói:
– Bữa nay nhân tiện ở Sài Gòn ra chơi, tôi muốn kiếm ít món đồ cổ nho nhỏ như chén đĩa, ấm trà làm kỷ niệm.
Chủ nhà:
– Cô món đó nhà em không có, chỉ có vài bức tranh.
– Về tranh thì tôi dốt, người tài bao nhiêu thì tranh của họ khó hiểu bao nhiêu.
– Tranh nhà này là cuộc tranh cãi của cấp tài danh nhưng không khó hiểu.
Tao lại phản hồi trống:
– Cậu biết đâu có đĩa đĩa cổ thì chỉ giùm.
– Nếu bác muốn tranh thì em đưa bác đi. Còn món đó thì em chịu.
Tao làm bộ dậy dậy ra về rồi quay lại ngẫu nhiên nói:
– Về Sài Gòn, tôi sẽ giới thiệu người chơi tranh với anh.
– Được thế thì tốt quá.
– Cho tôi xem qua để tôi biết mà giới thiệu.
– Vâng, thưa ạ!
Anh chủ nhà rối loạn. Nhìn ba bức tranh của Foujita trải nghiệm trên chiếc giường ngủ, tao muốn đứng tim. Đúng là cuộc tranh luận của Foujita rồi. Một bức thiếu nữ Hà Nội, một bức cô con gái người Âu, bức thứ ba, đúng là bức các nhà chơi tranh thế giới săn lùng, bức con mèo. Tao xem một cách thờ ơ, cũng không hỏi giá cả.
Sao không để làm kỷ niệm mà bán? – Tao hỏi.
Chúng tôi đang cần tiền để chữa bệnh cho bác ạ. Nhà phải lên tầng mới đủ chỗ. Tao không nói gì thêm, không hứa hẹn điều gì. Sáng hôm sau, tao tốc bay về Sài Gòn. Tao chọn một cô gái vốn là đệ tử của tao, một cô gái không chết dúa, không hát nhưng cũng không quê mùa, nhìn qua thấy là một người biết làm ăn, không lanh nhanh, chân thật nhưng không khờ. Nữ đệ tử tao bay ra Hà Nội ngày hôm sau và đến nơi ngay trong buổi sáng.
Vào nhà, sau vài lời trích dẫn, cô nhìn thoáng qua vài bức tranh treo ở nhà ngoài của Nhật nhưng là những phiên bản và cũng tầm thường: cô gái Nhật trong trà thất, cô gái Nhật cầm cây đàn. Cô hỏi mua, mua với giá gấp đôi của chủ. Bán được nhiều bức tranh cùng với giá thu hút, cả nhà đều vui vẻ. Vậy là cả nhà sẵn sàng cho cô xem những bức tranh quý của Foujita. Người bán thì tán, người mua thì chê, sau một hồi ngã giá, cô lấy hết cả ba với giá một cây cân.
Đời tao có bao giờ ra sân bay đón ai đâu. Thế mà tao đã ra tận sân bay đón ba bức tranh của Foujita. Tính ra, kể câu chuyện hụi đi về và ăn ở, ba bức của Foujita chỉ có hai cây. Tao thỏa mãn cả đời! Load to black day.
Nhìn bức tranh cô gái Hà Nội của Foujita, tôi đã nhớ lại những tấm gương mặt các cô Hà Nội mà tôi quen thuộc hoặc tình cờ gặp trên những con đường thơ mộng trong tiết thu. Tôi giật mình trước đôi mắt của cô gái người Âu, đôi mắt như đang nhìn tôi, đôi mắt như gặp tôi lần đầu, đôi mắt như muốn dò tìm tâm hồn tôi. Lạ thay, từ đó, tôi nhớ đôi mắt qua nét vẽ của Foujita hơn đôi mắt thực của người đời. Và số ba: con mèo. Con mèo đang được nhìn lại. Tôi như nghe tiếng “meo” từ nét vẽ rõ nét của cái thế đứng con mèo. Đôi mắt của con mèo vừa trong, vừa xanh, vừa phổi linh. Đôi mắt lim dim như đang nghĩ ngợi đến điều gì sâu xa lắm và bộ não của nó như động động với đôi môi chúm chím như cười…
– Có đã không?
Tôi gật đầu.
Trong vài tháng sau, những nhà săn tranh của Foujita cũng được biết đến là chủ nhân của những bức tranh quý ấy bây giờ là ai.
Một ngày hôm nay, bạn họa sĩ nổi tiếng ở đất Sài Gòn vốn cũng quen với tôi, đến tìm tôi:
– Nghe nói anh quen với anh Nam?
– Bạn học từ nhỏ.
– Vậy là may cho tôi.
– Sao?
– Tôi nghe nói ông Nam có vài bức tranh của Foujita?
– Có, tôi có xem.
– Vậy là đúng rồi. Tôi muốn nhờ anh giới thiệu tôi với ông Nam.
– Để xem tranh?
– Không. Một người bạn ở Pháp có gửi thư về nhờ tôi tìm mua cho một bức.
– Thì cứ đến ông ta.
– Không thể, tính ông ấy tôi biết. Nếu không có người báo trước, ông ta hoặc không tiếp, hoặc lắc bảo ông không biết ông Foujita là ông nào…
Tôi đã giúp người họa sĩ mua tranh này gặp Nam. Nam bán bức tranh thiếu nữ Hà Nội với giá hai cây. Còn bức cô gái người Âu, Nam gửi ra nước ngoài, nghe nói để bán giá. Còn bức con mèo, Nam vẫn giữ lại. Một ngày hôm nay, Nam đến với tôi:
– Đêm qua tao mơ một giấc mơ rất kỳ lạ. Có thể uống nhiều rượu quá. Tao mơ thấy con mèo của Foujita từ trong tranh cãi ra. Tao giật mình choàng tỉnh. Đúng là con mèo vừa phải ra cửa sổ. Tưởng là nó thật. Nóng cháy, bật đèn flash, mở tủ. Bức tranh vẫn còn, tao hương vàng trải nghiệm. Con mèo mèo hóa ra Foujita- Foujita chú ý nhìn tao: cười.