Trong 80 năm qua, từ ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12/1944 đến nay, trải dài các thời kỳ phát triển của văn học nghệ thuật cách mạng, đã xuất hiện không ít tiểu thuyết ghi dấu ấn những chặng đường văn xuôi tự sự, phản ánh khá thành công xung quanh đề tài lực lượng vũ trang nhân dân và cuộc chiến tranh nhân dân trường kỳ của lịch sử hiện đại Việt Nam. Sang thế kỉ XXI, dòng chảy ấy vẫn được tiếp nối một cách mạnh mẽ với nhiều tác giả và tác phẩm, trong đó có Suối Cọp của nhà văn Hữu Ước.
Bản dịch đầu tiên bằng tiếng Hungary do Nhà xuất bản AB Art của Hungary phát hành vào mùa hè 2023. Giám đốc nhà xuất bản này, F.Balázs cho biết: “Sau thời gian dài độc giả Hungary chỉ biết đến chiến tranh Việt Nam qua các cuốn sách của người Mỹ, người Hàn Quốc, thì 3 năm nay, với cuốn Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh, Suối Cọp của Hữu Ước do AB Art xuất bản, độc giả đã có cái nhìn khác hơn từ chính người trong cuộc ở phía Việt Nam. Sách của cả Bảo Ninh và Hữu Ước (những cựu binh chiến tranh Việt Nam) đều được độc giả Hungary quan tâm đón đọc…”
|
Vì sao Suối Cọp gây hiệu quả rộng rãi, lan tỏa như vậy? Đã có một số nhà văn, nhà quản lý cơ quan xuất bản, nhà nghiên cứu - phê bình trong và ngoài nước nhận xét, phát biểu về cách nhìn mới về cuộc chiến tranh Việt - Mỹ của tiểu thuyết Suối Cọp. Trong giới học đường văn khoa, bước đầu đã có những luận văn tốt nghiệp đại học, cao học khảo luận về nghệ thuật xây dựng hình tượng người lính và nghệ thuật tự sự độc đáo của tiểu thuyết này dưới góc nhìn thi pháp học, tự sự học.
Tham khảo các ý trên, đọc và suy ngẫm, cảm thụ riêng, dưới đây chúng tôi có mấy ý kiến sơ lược về những nỗ lực đổi mới trong tư duy và bút pháp nghệ thuật của tiểu thuyết này khi viết về đề tài lớn, quen thuộc là lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh nhân dân ở Việt Nam.
Với độ lùi nửa thế kỷ, xuất hiện sau nhiều người viết trước đó, song tiểu thuyết Suối Cọp đã cắm một mốc mới, tìm tòi con đường riêng. Với cách tiếp cận chiến tranh qua một lát cắt trong thời gian ngắn tại một vùng chiến sự trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn nơi bắt đầu, tiếp giáp Tây Trường Sơn - vùng Suối Cọp, chỉ tập trung miêu tả dăm bảy nhân vật chính gắn với các sự kiện lớn mà họ nếm trải trong chiến đấu và sinh hoạt thường ngày, tác giả đã cho thấy chỗ đứng và góc nhìn mới mẻ, những suy tư, chiêm nghiệm mới về hiện thực và con người thuộc các thế hệ, dân tộc, tầng lớp bị cuốn vào guồng máy của chiến tranh, cùng những đặc sắc trong bút pháp in dấu ấn cá tính sáng tạo độc đáo của một nhà văn từng trải, lão thực.
Là một cựu chiến binh, đã trải nghiệm những năm tháng tuổi trẻ trên cương vị người lính trực tiếp cầm súng nơi chiến trường gian khổ, ác liệt ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cây bút Hữu Ước đã tích lũy, sở hữu một vốn sống phong phú, phồn tạp mà sâu sắc về muôn mặt của chiến tranh, về những con người các loại tham gia vào cuộc chiến từ nhiều phía: lực lượng vũ trang của ta, nhân dân, kẻ địch Mỹ - ngụy.
Ông không đơn thuần tiếp cận chiến tranh theo cách nhìn truyền thống, tức ở tầm vĩ mô, đơn tuyến làm nổi bật tính sử thi, hào hùng, cao cả của phía ta trong cuộc xung đột giữa hai bên ta và địch, để bảo vệ an ninh Tổ quốc. Giữa hai lực lượng ta và địch, tác giả vẫn cho thấy sự khác nhau về lý tưởng, tinh thần chiến đấu, động cơ cầm súng, cần phải phân tuyến rành mạch, không lẫn lộn.
Song mặt khác, tuy hai bên thuộc hai trận tuyến phải tìm mọi cách để tiêu diệt sinh lực đối phương, giành thắng lợi về mình, nhưng có những phạm vi thuộc về nhân tính, bản tính người như tình cảm gia đình, tình đồng đội (với cha mẹ, anh chị em, người thân là vợ con, người đồng đội từng đồng cam cộng khổ bên nhau sống chết…) thì đôi bên vẫn có những điểm gần gũi, gặp gỡ nhau. Những người lính có lương tri của hai bên vẫn trân trọng giữ gìn những kỷ vật gia đình thiêng liêng của người lính phía bên kia khi họ đã ngã xuống, trân trọng hình hài của họ được trở về trong sự mong đợi của người thân. Chương 5 của tiểu thuyết viết rất xúc động về chiến sĩ ta sau khi tiêu diệt tên lính biệt kích địch, thấy trong ví của y có tấm ảnh với dòng chữ trẻ con của em gái y, mong y trở về sớm đoàn tụ với má và em, đã quyết định tìm cách cho máy bay trực thăng của đơn vị y được an toàn đáp xuống nhặt xác y về để giao lại cho gia đình.
Suối Cọp còn là bản tình ca buồn của tình yêu con người không được thực hiện trọn vẹn trong chiến tranh, là tiếng nói tố cáo bom đạn và chất độc màu da cam đã hủy hoại môi trường sống và thiên nhiên từng che chở con người, là sự cảnh báo chiến tranh có thể hủy diệt sự tồn tại của cả một tộc người cùng với truyền thống văn hóa từ bao đời đã gắn bó với họ. Chiến tranh còn để lại những di họa khủng khiếp về di truyền nòi giống cho thế hệ sau. Trong tiểu thuyết, nhà văn đã dành nhiều trang giàu cảm xúc và thi vị, miêu tả cuộc tình của hai đôi. Hoàn (chiến sĩ) và Lan (y tá); Tuần (đại đội trưởng) và Liên (bác sĩ quân y). Tác giả có cái nhìn chia sẻ, cảm thông, trân trọng, thể tất cho sự bất cẩn mà cuồng nhiệt khi họ đến với nhau, gắn bó thân xác si mê, không gì cưỡng lại được.
Kỷ luật quân đội thời chiến không khuyến khích việc yêu đương trong thời gian tại ngũ, khuyến nghị con người cần “hi sinh tình cảm”, gác tình riêng để dồn sức hoàn thành việc chung của tập thể đồng đội.
Tác giả tiểu thuyết đã không nhìn nhận quá ư “khắt khe” trước sự vi phạm quy định ít nhiều của các cuộc tình giàu tính nhân bản này. Ông đã tìm cách hóa giải những ràng buộc không đáng có đối với nhân vật của mình. Bác sĩ Liên đã cắn răng, nén khóc, sau khi trao thân cho người mình yêu, đã để lại bức thư trải lòng, lặng lẽ xin chuyển công tác sang đơn vị khác để không bị nặng lòng mà vướng víu. Chị đã hi sinh mà không gặp được người yêu đầu đời. Y tá Lan thì được ra quân trở về địa phương với cái thai trong bụng, kết quả của tình yêu dâng hiến trọn vẹn với Hoàn, trong khi người tình của cô sau khi hứng chịu án kỷ luật do vi phạm kỷ luật yêu đương nơi chiến trường, đã tự gây ra cái chết bất đắc kỳ tử.
Cái nhìn về tình yêu, tình cảm cao quý mà con người dành riêng cho nhau, đối với tác giả là độ lượng và cảm thông. Vì đó là những bản tình ca đẹp, nhưng buồn, đáp ứng những gì thuộc bản tính tự nhiên của con người, cho dù chỉ có điều chưa hẳn đã phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh bây giờ, nên phải chăng có phần “quá đà”, có phần chưa hoàn hảo, do không cẩn trọng.
Các chương 7 và chương 8 của tiểu thuyết được tác giả viết một cách khéo léo miêu tả hành trình của hai chiến sĩ Hữu và Hoàn mang lương thực đến cứu giúp bà con người dân tộc bản Bông Va, họ phải đi băng qua khu rừng chết vào hang sâu cứu đồng bào sắp chết vì đói khát. Qua đó, đề cập đến vấn đề quân đội, lực lượng vũ trang tham gia vào việc giữ gìn các phương diện của an ninh phi truyền thống, tất cả hướng về con người, bảo vệ sự an toàn tính mạng, kinh tế, văn hóa phong tục của họ. Đó cũng là một sứ mệnh thiêng liêng của lực lượng vũ trang góp phần duy trì sự gắn bó và niềm tin của nhân dân với Đảng, với quân đội. Quân đội không chỉ tập trung làm nhiệm vụ quân sự (là chính) mà còn phải tích cực tham gia làm kinh tế, văn hóa và an sinh xã hội nữa.
Tác giả tập trung bút lực xây dựng các nhân vật chính về phía ta là đại đội trưởng Quyết - chỉ huy đơn vị bộ binh 759 bảo vệ đường Trường Sơn; đại đội trưởng Tuần - chỉ huy đơn vị trinh sát vũ trang 26 công an vũ trang; Hữu - chiến sĩ liên lạc của đại đội trinh sát vũ trang; Hoàn - chiến sĩ đại đội trinh sát vũ trang; Thế Cương - tiểu đội trưởng; Mão - chính trị viên đại đội trinh sát; bác sĩ Liên, y tá Lan thuộc trạm cứu thương Suối Cọp. Các nhân vật chính này đều được miêu tả kỹ về ngoại hình, hành động và cử chỉ, ngôn ngữ nói cùng là đời sống nội tâm của họ. Điểm mạnh của Hữu Ước trong xây dựng nhân vật là ông rọi cái nhìn bên trong, đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, cho thấy chiều sâu trong đời sống tình cảm và suy nghĩ của họ, kể cả ở những phương diện thầm kín, khó nói ra, những cuộc xung đột nội tâm dai dẳng trong lòng trước khi họ hành động này nọ. Trong đó nhân vật Hữu - nhân vật trung tâm - có nhiều nét về con người, lai lịch và tính cách là tương đồng, rút ra từ nguyên mẫu là tác giả, nhưng không đồng nhất hoàn toàn.
Tiểu thuyết được viết theo bút pháp tự sự truyền thống, sắp xếp thành 23 chương với phần kết. Các chương được kể theo trình tự thời gian tuyến tính là chính, xen kẽ với những đoạn hồi ức của nhân vật, đảo thời gian về quá khứ. Mỗi chương kể trọn vẹn một câu chuyện của nhân vật chính với các nhân vật phụ có liên quan, về các sự kiện gắn kết người của ba đơn vị phía ta trong hợp đồng tác chiến trên chiến trường hoặc trong sinh hoạt đời thường nơi hậu cứ, chăm sóc thương binh ta và tù binh Mỹ. Tất cả được liên kết, xoắn xuýt, đan cài vào nhau, dệt lên bức tranh tổng thể về cuộc chiến tranh nhân dân huy động sức mạnh tổng hợp từ nhiều nguồn, mà lực lượng vũ trang là chủ công, quyết định mọi thắng lợi.
Tiểu thuyết lôi cuốn sự tiếp nhận của người đọc qua những tình tiết, chi tiết miêu tả rõ nét, sinh động, như bày lên trước người đọc những thước phim kỳ thú, những lớp kịch căng thẳng, hồi hộp. Ví dụ như chi tiết đại đội trưởng Tuần trổ tài bắt sống rắn độc để giải cứu đồng đội (chương 1, tr.12); Con gái già làng Bông Va không may bị hổ vồ và các chiến sĩ ta phải bày đặt phục kích để sát hại hổ dữ, trừ họa cho dân bản (chương 4, tr.52); Hoàn và Lan bị chỉ huy đơn vị theo dõi bắt quả tang khi đang ân ái trong rừng không xa chỗ đơn vị đóng quân (chương 21); Cuộc giao hoan nồng cháy ngẫu hứng giữa đại đội trưởng Tuần và bác sĩ Liên trên đường về nơi đơn vị tập kết (chương 9); Đại đội trưởng Quyết chiến đấu dũng cảm nhưng bất hạnh chết vì ngộ độc trong gian hào trên đồi không tên đầy tử thi ngập nước. Sau đó, phải đưa voi của đơn vị đến vớt xác người dũng sĩ lên bờ, rồi voi cũng nhiễm độc mà mất mạng (chương 14); Cuộc chiến sống mái giữa đàn chó sói hung dữ với cặp voi sau khi giao hoan, được hai chiến sĩ Hữu và Hoàn chứng kiến, khiến các anh phải xông vào dùng súng đạn giải cứu đôi voi đưa về bản (chương 7); Cuộc chiến tử thủ, giằng co một mất một còn giữa lực lượng ta và phía địch trên Đồi không tên (chương 13); Chiến sĩ Hữu sau chiến tranh thực hiện lời hứa đền bù dân bản Bông Va, do ngày trước con trâu của bản buộc phải thịt làm thức ăn cứu sống dân bản; việc đó nay dù làm muộn mằn, nhưng khiến anh thanh thản trong lòng (phần kết).
Những tình tiết trên với các chi tiết miêu tả sinh động, có những nét bất ngờ, li kì, khó có thể tưởng tượng ra được, cho thấy tài quan sát và năng lực kể chuyện bậc thầy của cây bút Hữu Ước.
Suối Cọp có ngôn ngữ tiểu thuyết điêu luyện. Ngôn ngữ của người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, đối thoại và độc thoại nội tâm, tả cảnh, tả tình… được tác giả sử dụng khéo léo, nhuần nhuyễn, thông thạo và tự nhiên. Cảnh và người như hiện lên rành rõ trước mắt người đọc, như vang lên, ám ảnh tâm trí người đọc.
Toát lên từ các loại ngôn ngữ được sử dụng nói trên, tác phẩm như là một bản hợp xướng, đa giọng điệu, đa diễn ngôn: có giọng điệu khoan thai mà hào hứng, có giọng điệu trầm lắng đầy suy tư, có giọng điệu bi tráng có giọng điệu đầy cảm xúc, thăng hoa tâm tưởng; có giọng điệu phấn chấn, lạc quan, tin yêu.
Tất cả làm thành một khúc vĩ thanh vừa có tính chất sử thi, anh hùng ca, vừa có tính chất bi tráng của những con người anh hùng, quả cảm đã vượt lên muôn vàn thử thách cam go, đối diện với cái chết, để vượt lên giành chiến thắng cho Tổ quốc trường tồn, cho sự tôn vinh các giá trị nhân bản nơi con người với niềm tri ân sâu sắc tưởng nhớ những người không quản thân mình hi sinh vì đại nghĩa của dân tộc, nêu cao tinh thần hòa hợp dân tộc, hóa giải hận thù, hướng về Chân - Thiện - Mỹ - những giá trị căn cốt, vĩnh hằng!
Có thể nói Suối Cọp là một thông điệp nghệ thuật thân thiện và khả ái, giải mã vì sao lực lượng vũ trang Việt Nam gắn bó và được nhân dân làm hậu thuẫn chắc chắn, đã tích hợp được nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của một đất nước yêu chuộng hòa bình với hàng nghìn năm văn hiến truyền thống, đã chiến thắng giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, một cách thuyết phục, như một kỳ tích của thời đại.
Nhà văn Hữu Ước và bạn đọc Thụy Điển tại Hội chợ sách quốc tế Goteborg. |