Sáng tác văn xuôi của Đinh Phương từ truyện ngắn đến tiểu thuyết đều thể hiện một sự thống nhất trong phong cách nghệ thuật, tràn ngập những khoảng trống, hoài nghi, chuỗi biểu tượng khiến người đọc phải bối rối khi tìm cách giải nghĩa. Đinh Phương luôn tập trung vào quá trình đặc tả tâm lý nhân vật, song nhân vật càng cố gắng tự phản tỉnh, lý giải những trải nghiệm từng có, lại càng thấy bản thân lạc vào một mê lộ hư hư thực thực. Trong thân phận lạc loài, đơn độc của cá nhân là cảm thức chung về bi kịch thời đại. Dù là thế kỷ XX với vô vàn biến động lịch sử, hay thế kỷ XXI với sự phát triển vượt bậc của kinh tế, khoa học, công nghệ, thì lỗ hổng trong nội tâm con người vẫn không thể được lấp đầy. Tập truyện ngắn Thị trấn cá bông mới ra mắt của Đinh Phương vẫn tiếp nối những dòng chảy ấy. Trong đó, vấn đề ký ức đặt ra không chỉ là một sự hồi cố về tổn thương cá nhân, giúp người đọc manh nha hiểu nguyên do dẫn tới bức tranh thực tại đầy bế tắc, xám xịt, mà ký ức còn lồng ghép với một nhiệm vụ rằng chính chủ thể phải nhìn thẳng vào những gì đã và đang xảy ra, phải tiến bước trên con đường lý giải chuỗi trải nghiệm, biến cố của cả thế hệ mình và thế hệ đi trước.
Có hai vấn đề điển hình trong Thị trấn cá bông, thứ nhất là sự tồn tại của kiểu gia đình phân mảnh - với những khiếm khuyết, mất mát, phản bội, từ đó để lại sang chấn liên thế hệ. Thứ hai là cách mà người viết đặt ra câu hỏi xoay quanh những cột mốc lịch sử, không phải để lý giải bản chất của sự kiện ấy, mà để xoáy sâu vào số phận của những con người bên lề dù muốn hay không cũng bị cuốn vào. Câu chuyện của cá nhân họ là điều mà những người trong cuộc chỉ có thể tự mình gánh chịu, để rồi sống tiếp quãng đời còn lại trong nỗi mỏi mòn, bởi như Đinh Phương đã viết: “Lịch sử thuộc về tất cả mọi người; còn ký ức dành riêng một người”.
![]() |
| Sách Thị Trấn Cá Bông. Ảnh: Thúy Diễm. |
Điểm chung của các truyện ngắn trong Thị trấn cá bông là sự tồn tại của không gian thị trấn Mạo Khê, nơi có thể nhìn tới dãy Đông Triều quanh năm mây phủ, trên đỉnh có ngôi nhà lợp ngói, có những ngày chẳng biết ai trên núi đốt lửa, nơi mà những kiếp sống ngày càng trở nên già cỗi, những đứa trẻ lớn lên quanh quẩn trong vòng lặp bỏ đi - trở về, mà dường như trong cái vòng lặp ấy còn có mệnh đề nào đó quan trọng hơn cả vòng lặp sống - chết. Không gian gia đình liên tục bị phân rã, phá hủy, bởi những cuộc di cư rồi biệt tích, như thể đi nghĩa là chết, bởi những cặp vợ chồng phản bội lẫn nhau, sẵn sàng bỏ lại con cái để tới sống cùng người tình. Tình nghĩa có thể sâu nặng đến đâu, mà người ta có thể chờ đợi, hoài nhớ về nhau cho đến chết, nhưng tình nghĩa cũng là thứ rất nhẹ, như mây mù thị trấn, nói lìa là lìa, nói tan là tan. Rốt cuộc, điều gì ở con người là thứ quyết định người ta sẽ đứng về bên nào ở hai thái cực hoàn toàn đối lập này? Gia đình vốn là không gian nên là gốc rễ của đời người, giờ đây bị bẻ thành từng mẩu lẻ tẻ, chúng không chỉ nằm rời rạc, xa cách nhau, mà còn có những mẩu dường như bị chính số phận quên mất đã bỏ lạc ở đâu.
Trong trong lúc chờ bố, người bố rời bỏ gia đình để cưới vợ mới và có một đứa con khác, nhưng khi ông mắc bệnh, người vợ mới lại đi theo con đường tu tập, muốn đưa ông quay trở lại sống với vợ cũ, rồi “tổ chức một bữa cơm hợp nhất giữa hai gia đình”. Một vở kịch phi lí được dựng lên, cuối cùng kết thúc với sự biến mất của người bố, không ai biết ông đã bỏ đi đâu. Vào lúc cuối đời, ông không còn trong tư thế của người được lựa chọn, không còn là mảnh ghép cuối cùng quyết định gia đình nào mới là gia đình toàn vẹn cha - mẹ - con như năm xưa. Cùng bi kịch bị bố bỏ rơi, Hòa trong Những buổi chiều màu cam tưởng rằng bố đã qua đời trên biển khi vượt biên vào năm 1987, nhưng bố cậu lại trở về cùng một người vợ mới. Hòa đã nói “giá bố tao chết thật”, để rồi chính Hòa là người nhảy từ cầu Long Biên xuống, để lại cả mẹ, người yêu, bạn thân, và cả đứa con chưa chào đời. Đứa con ấy rồi sẽ lớn lên, liệu có mang theo khúc mắc về người bố chưa bao giờ được gặp, không bao giờ hiểu vì sao ông lại tự sát, biết đâu nó cũng sẽ mang theo những hoài nghi ấy rời bỏ thị trấn, rời bỏ người mẹ như chính Hòa đã làm năm xưa? Sang chấn liên thế hệ là điều có thể dự đoán trước, đây cũng chính là hậu quả lớn nhất mà những gia đình tan vỡ để lại. Một đứa trẻ khi nhận thức được hoàn cảnh của gia đình, nó sẽ mặc nhiên cảm thấy mình phải gánh vác trách nhiệm khi là một thành tố thuộc về gia đình đó. Kể cả khi nó trưởng thành, già đi, nó vẫn có thể còn loay hoay với quá khứ như hòng muốn sửa lại sai lầm xưa - nhưng có sửa được không, nếu đó không phải sai lầm của thế hệ nó?
Bên trong mong muốn được thoát ly khỏi nơi mình đã sinh ra và lớn lên của các nhân vật trong Thị trấn cá bông là khao khát được thoát ly khỏi chính những gì đã làm nên căn tính, lý lịch. Nhưng dù là ở thị trấn Mạo Khê, ở đô thị, ở con thuyền lênh đênh trên mặt biển không biết sẽ trôi dạt về đâu, hay ở một nơi nào đó vô danh trên cõi đời, mà có thể người họ rất yêu thương và chờ đợi được gặp lại đang ở đó, dù cho có quyết định đi tới nơi nào, mỗi người đều phải mang theo chính mình. Đinh Phương xây dựng thị trấn như thể một vùng không gian của ký ức, của những điều đã qua, nhưng nó cũng day nhấn một vấn đề của đời sống đương đại - thấy mình như một con thuyền trôi dạt, không biết phải neo đậu tại đâu. Các nhân vật trong Thị trấn cá bông đều gắn liền với cảm thức về sự di cư, không chỉ trong bối cảnh của thế kỷ XX do những yếu tố lịch sử tác động, mà còn cả trong đời sống tưởng chừng đã êm ả ngày nay. Kể cả dù thân thể họ chẳng hề rời Mạo Khê, hay chỉ ở lì trong một căn phòng tại đô thị, tâm trí họ vẫn trôi mải miết về những phương trời khác, những câu chuyện khác, những lịch sử khác.
Tại sao lại là Thị trấn cá bông? Nếu trong Cá bông, nhân vật chính mơ thấy mình biến thành cá khi đang chết dần chết mòn trên con thuyền lạc giữa biển khơi trên đường đi tị nạn, thì ở Phép cộng của một người béo, con người cũng dần biến hóa thành lợn, nhưng lại là lợn có cánh, lợn có thể dang cánh bay. Tình thế muốn thoát ly của con người từ việc muốn rời bỏ nơi chốn - vì thế đẩy mình vào trạng thái di cư, đã bị đẩy lên tới cả ngưỡng muốn thoát ly khỏi thân phận con người, muốn trở thành một giống loài khác, có được quyền năng tự nâng đỡ thể xác rời khỏi mặt đất. Nhưng dù có trở thành cá bông, có tự do tự tại trên bầu trời, người đó vẫn thấy mình bị cuốn vào hành trình trở về thị trấn, mà trở về rồi vẫn thấy mình như bị đào thải khỏi nó: “Tôi là cá, tôi không muốn nghĩ ngợi nhiều. Tôi bơi một vòng quanh nhà. Nhà của tôi, nơi tôi sinh ra lớn lên mà giờ sao xa lạ quá. Giường đây, chiếu đây, tủ quần áo kia, bàn thờ, hình như nhà này là nhà bỏ hoang chứ không phải nhà tôi. Nỗi nghi ngờ lớn dần, tôi đột ngột bị đẩy bật ra khỏi căn nhà của mình. Giờ tôi lơ lửng bên ngoài, nhìn xuống thứ được gọi là nhà tôi mà không phải nhà tôi. Từ chối hay chấp nhận?” (Cá bông). Những hình tượng này đầy phi lý và huyễn hoặc, như thể hoán dụ từ cổ tích trẻ thơ, mông lung đến mức người ta cảm thấy đó chỉ là một ước mộng viển vông. Khi đã trút bỏ thân xác trần ai, tới mức trở thành không da không thịt như cá làm bằng bông gòn, gánh nặng của ký ức về ngày hôm qua, về thị trấn, gia đình, cha mẹ, thân phận cũng nào có nhẹ vơi?
Từ một số truyện ngắn trong tập Mơ Lam Kinh cho đến tiểu thuyết Nhụy khúc, Nắng thổ tang lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc, Đinh Phương đã để lại dấu ấn sáng tạo riêng trong cách chọn điểm nhìn về lịch sử. Từ những chi tiết, sự kiện, mốc thời gian chung - những điều luôn chỉ dẫn người ta tới kết quả công khai có thể chạm đến, Đinh Phương xoáy sâu vào vấn đề về thân phận con người bên lề, với những khoảng trống bị bỏ ngỏ mà thế hệ sau chỉ có thể đưa ra dự đoán, khi hiện thực đã trở thành điều không còn khả năng kiểm chứng.
Lịch sử trong Thị trấn cá bông nhắc đến cột mốc năm 1954 khi Hiệp định Geneva được ký kết, hai miền Nam - Bắc bị chia cắt ở vĩ tuyến 17, kéo theo đó là sự tan vỡ, ly tán của biết bao gia đình; nhắc đến cột mốc của 0 giờ ngày 16 tháng Sáu năm 1988 - những người đến Hồng Kông trước giờ đó được coi là tị nạn chính trị hiển nhiên, chờ ngày đi tới nước thứ ba, còn những người tới sau phải phỏng vấn sàng lọc rất kĩ; nhắc đến cột mốc của những năm tháng còn chiến chinh, thanh niên trai tráng rời làng đi lính, có khi chỉ còn lại duy nhất một người còn sống mà quay trở về. Đinh Phương kể về thân phận của những người di cư, tị nạn, trong đó có những người đã biệt tăm, chẳng biết còn sống hay đã chết, để lại phía sau là người thân sống mãi trong nỗi ngóng trông mòn mỏi, như bà mẹ già tóc trắng đã thành ma vẫn lang thang trên bờ biển, hỏi có ai thấy con mình không, cả làng chỉ biết đồng lòng nói dối bóng ma rằng đứa con ấy đã tới được Hồng Kông (Bích đào năm ấy). Hay có chàng thanh niên cả đời sống trong một ước vọng duy nhất là được đi lính, nhưng một mắt đã hỏng thì làm sao có thể ra trận, cuối cùng bỏ lên núi sống đơn độc một mình, cứ tự nhủ sắp rồi, sắp rồi như đã nửa tỉnh nửa điên tới cả khi chiến tranh đi qua (Chú Phù). Đó là lịch sử của những kiếp sống vô danh, những thân phận bên lề, những khoảng trống người ta hiểu rằng dày đặc bi kịch, làm sao có thể gọi tên lên một điều gì cụ thể? Ký ức của họ trở thành dòng chảy miên man, thành chiếc bóng dài bao trùm lịch sử của thị trấn, của những gia đình, dòng họ, tới cả đời những đứa trẻ thuộc về thế hệ sau. Để rồi chúng lớn lên trong niềm ngơ ngác, nhận biết được một bi kịch lớn lao đã từng xảy ra, lại không tài nào nắm bắt được nó để mà hiểu thêm về cội nguồn của mình, rằng mình lớn lên từ đâu, cuối cùng còn có thể đi về đâu. Đằng sau một cột mốc lịch sử là vô vàn câu chuyện đời.
![]() |
| Ảnh: Thúy Diễm. |
Trong Quỷ ngắm trăng, “tôi” và Giao là hai sinh viên tốt nghiệp từ ngành Báo chí, cách sống, cách yêu của họ như thể lục bình trôi, nay đây mai đó, không nơi nương tựa. Song đằng sau câu chuyện của Giao là lịch sử đau thương của năm 1978 khi Pol Pot thảm sát Ba Chúc, ông bà nội ngoại của Giao đều đã qua đời trong sự kiện ấy. Dẫu cho thời gian có trôi qua bao lâu, Giao vẫn trông thấy những bóng ma còn tồn tại trên mảnh đất này. Còn công việc làm thư kí tòa soạn cho tạp chí Phật giáo của “tôi” lại dẫn anh tới lịch sử hình thành của tạp chí, khi tổng biên tập là người đã di cư vào Nam năm 1954. Con gái ông mãi sau này cũng không biết ông đã làm gì, làm cho ai, mà vào ngày đầu tháng Tư năm 1975 lại bị giết bởi ba phát đạn, còn những người khác trong gia đình lại khuyên răn rằng đừng truy tìm gì chuyện xưa thêm nữa. Câu chuyện bỏ ngỏ của vị tổng biên tập kia cũng giống như câu chuyện của vị linh mục trong Người một nhà, người đã biến mất không để lại một dấu vết lẫn liên lạc nào vào cuối năm 1963 khi Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết sau đảo chính. Những người con nuôi đến nhà thờ hỏi tìm ông, thì người ta nói chẳng tồn tại linh mục nào như thế, người con gái nuôi phải nghi ngờ ký ức của chính mình: “Có hay không ký ức dệt nên rất khéo từ năm 54 kéo dài đến mãi sau này? Nhiều lúc, bác nghi ngờ chính mình lẫn chồng con. Liệu hiện thực đang diễn ra có đúng hiện thực bình thường, không phải trong một bộ phim, một giấc mơ. Chồng con có đúng chồng con mình, họ không diễn hay lừa phỉnh. Và quan trọng nhất, mình có đang là mình, chứ không phải loài ốc mượn hồn vỏ một đằng, thân một nẻo”. Có những khoảng trống có thể lấp đầy bằng tưởng tượng, giả lập, nhưng cũng có những khoảng trống - người ta chỉ có thể mãi mãi để nó bị bỏ ngỏ. Con người thuộc về thế kỷ XX trong Thị trấn cá bông dường như rất nhiều người đều cùng đi tới một kết cục là biến mất. Một cá nhân làm sao có thể sở hữu được lịch sử, nhưng cá nhân có sở hữu được ký ức của chính mình hay không? Vấn đề ký ức được đặt ra trong sáng tác của Đinh Phương, một mặt, nó day nhấn tổn thương mà nhân vật phải chịu đựng, rằng có một sự kiện nào đó xảy ra để lại cái hố không bao giờ có thể lấp đầy trong con người đó, người ta có thể giả định đặt ra một khởi đầu, song không biết bao giờ mới là kết thúc. Hình dung đơn giản nhất về chấn thương là ký ức xưa chẳng bao giờ phai nhạt, ký ức vẫn tươi rói như ngày hôm qua, như thể ta của hôm nay, dẫu bao nhiêu năm đã trôi qua rồi, vẫn đang trong thời khắc chuẩn bị tiến bước vào nó. Mặt khác, các nhân vật cũng hoài nghi về tính xác thực của ký ức, để rồi rơi vào trạng thái sống như loài ốc mượn hồn. Có lẽ đó là lý do để dù những người khác nói rằng hãy để quá khứ ở nguyên hiện trạng cũ, đừng tìm làm gì nữa một câu trả lời, họ vẫn tiếp tục hành trình tìm kiếm, truy vấn, trăn trở trong mơ hồ và cô độc. Câu chuyện của lịch sử không chỉ cho ta biết về cuộc đời của những người khác, mà ở bên trong đó còn chứa đựng một phần cội nguồn của chính bản thân ta - thế hệ tiếp nối sau.
Nếu ký ức là sự tồn tại có thể bị lầm tưởng, phóng đại, thêu dệt, dù con người có tự ý thức được về vấn đề này hay không, thì ranh giới giữa cái thực và cái không thực còn có thể là ranh giới của cái có lý và cái phi lý. Trong Phép cộng của một người béo, người đàn ông trong mùa cách ly dịch bệnh, cứ bảy ngày lại tăng thêm bảy cân dù chẳng ăn uống gì. Ông chủ nhà trước đó cũng rơi vào tình trạng tương tự, ông đã hoàn toàn biến thành một con lợn, mọc cánh chui vào trong những kẽ tường rồi biến mất. Điểm chung của họ là việc chỉ có thể ở lì trong nhà vì dịch bệnh, “nghiện quảng cáo, giới thiệu sản phẩm thuốc bổ, đồ ăn đồ uống trên ti vi…; mắt đỏ quạch chong chóng mở, điều khiển chuyển kênh liên tục”. Tất cả trải nghiệm có được là trải nghiệm từ việc xem các video ngắn, họ tiếp nạp mọi thứ mà mạng xã hội hỗn tạp theo thuật toán đẩy tới trước mặt. Xen lẫn với câu chuyện phi lí người hóa lợn là câu chuyện kỳ dị về những con chuột nơi quê cũ Hải Hưng của bà chủ nhà, có hai đứa trẻ sơ sinh đã bị chuột tinh ăn thịt. Song có một đặc điểm là cả hai sự kiện dẫu về lợn hay về chuột - chúng đều chỉ là lời kể từ ký ức của bà chủ nhà. Ta không thể kiểm chứng nó, cũng không biết những suy tưởng của nhân vật chính có đang chịu ảnh hưởng từ ký ức của người khác hay không? Lịch sử trong tập truyện ngắn này không chỉ là không thời gian mà giờ đây ta chỉ có thể ngoái nhìn lại, mà đó còn là không thời gian mà ta tồn tại trong đó, ta có gì để nói về thời đại hôm nay, hiện trạng xã hội mà ta đang là một cá thể thuộc về nó? Mầm mống của tha hóa, suy đồi và tan vỡ được gieo rắc ở khắp nơi. Tình thế đi hay về của nhân vật từ đó còn trở thành câu hỏi liệu người đó có thể chấp nhận được cuộc sống đầy nhiễu nhương của thời hiện đại hay không, hay nên quay lưng lại, để ít nhất còn bảo vệ được thánh địa bên trong nội tâm mình?
Có thể thấy Thị trấn cá bông là tập truyện ngắn kế thừa được những ưu điểm trong các tác phẩm trước đó của Đinh Phương, song nó cũng chứa đựng sự mở rộng với những thể nghiệm mới. Đinh Phương viết về lịch sử không theo cách chỉ phản ánh, tái hiện riêng những chất liệu đã có sẵn, mà người viết có ý thức tiếp tục đặt ra câu hỏi, với hy vọng rằng lời giải có được từ đó lại là một điểm trung gian để con người ngày hôm nay giải được câu hỏi của chính thời đại mình chăng? Thị trấn Mạo Khê trong Thị trấn cá bông đã trở thành một biểu tượng, nơi thế kỷ XX dường như vẫn tiếp tục song hành với thế kỷ XXI. Hình dung về thị trấn không bị giới hạn trong tâm trí người đọc ở một sự ước lường cụ thể về vị trí địa lý nào, bởi vấn đề của con người bên trong Mạo Khê còn là vấn đề của biết bao thị trấn hay đô thị lớn khác. Người đọc cảm thấy mình như thể là một sự tồn tại bên trong dòng chảy của thị trấn, song người ta sẽ thiết lập mối quan hệ với nó như thế nào, không thể tách rời, chỉ muốn rời bỏ, hay cảm thấy mình thuộc về nó nhưng liên tục bị đào thải khỏi nó, ấy lại là câu hỏi bỏ ngỏ cho mỗi người.