Đã có rất nhiều tác giả mượn ĐẤT làm chủ đề và nhan đề tác phẩm: Đất Phương Nam, Đất Quảng, Hòn đất, Đất làng, Mảnh đất lắm người nhiều ma… nhưng Đất lạnh - tiểu thuyết mới ra lò năm 2020 của nhà văn - bác sĩ Vũ Oanh vẫn là một khám phá với những chiều kích mới rất đáng suy ngẫm.
Tác phẩm chủ yếu lấy bối cảnh một làng quê đồng bằng Bắc bộ, xoay quanh những thăng trầm của mẹ con bà Sửu và bác sĩ Thịnh, nhưng với thủ pháp hồi cố và hiện tại đan xen liên tục, câu chuyện lại mở rộng đến 2-3 thế hệ các gia đình nội ngoại với đủ tầng lớp, với vô số màn kịch bi hài trải qua nhiều biến động xã hội của đất nước suốt hơn nửa thế kỷ, nên Đất lạnh không thuộc dòng sử thi, không trực tiếp miêu tả các sự kiện lớn mà vẫn giúp bạn đọc hiểu sâu hơn lịch sử; mặt khác, Đất lạnh cũng không hẳn là “tiểu thuyết gia đình”, nhưng lại đặc biệt chú trọng đến sự tan rã của gia đình qua những biến động xã hội, trong đó cuộc Cải cách ruộng đất, mặc dù chuyện “Cải cách” chỉ là những lát cắt trong dòng hồi cố của nhân vật. Đây cũng là một nguồn gốc dẫn đến những tha hóa về đạo đức hiện nay mà báo chí chính thống ngày nào cũng “báo động” với các vụ việc đau lòng.
Những ai theo dõi sáng tác của Vũ Oanh sẽ nhận ra trong Đất lạnh lại xuất hiện hai nhân vật từng có mặt ở tiểu thuyết Bác sĩ Trưởng khoa (Nxb Hội Nhà văn, 2013, tái bản 2014 và 2017); đó là bác sĩ Thịnh và Trần Tử Khang. Hai bác sĩ là đồng hương, đồng đội, từng có mặt ở chiến trường miền Nam, ngày hòa bình trở về quê gặp lại nhau. Tuy vậy, Đất lạnh không tiếp nối chủ đề “mổ xẻ” những con người ngành y mà là cuộc “mổ xẻ” lớn, quan trọng hơn nhiều: “giải phẩu” tìm căn nguyên căn bệnh tha hóa trong xã hội hiện nay. Thịnh xuất hiện suốt từ đầu đến cuối tác phẩm, nhưng anh chỉ đóng vai nhân chứng là chủ yếu; còn Khang, gần cuối phần 2 mới có dịp trở về quê gặp Thịnh. Có cảm giác là tác giả cho Khang xuất hiện lại trong Đất lạnh như là một điểm tựa để soi nhìn về quê hương dễ dàng, do hoàn cảnh xuất thân của tác giả được sử dụng một phần làm “nguyên mẫu” cho nhân vật này. Như thế, tuy Đất lạnh không phải là “tự truyện”, nhưng mỗi khi tác giả nhắc đến Thịnh, trong tâm trí ông, trước mắt ông đã hiện ra bờ tre, đàn cò, ngôi miếu đá cổ xưa… chỉ chờ chực hiện lên trang giấy. Một lẽ nữa, có thể tác giả muốn cuộc “mổ xẻ” sự tha hóa xã hội phải được tiến hành với đôi mắt tinh tường, cái tâm trong sáng và phải tinh thông nghề nghiệp như các lương y mà tác giả kính trọng, như thầy Lẫm, thầy Khiên – ông nội của Thịnh và Khang, hai danh y được bà con của quê hương quý mến và tin cậy.
*
Ngay từ mấy chương đầu tiểu thuyết, sau khi Thịnh đưa mẹ là bà Sửu trở lại quê nhà dưỡng bệnh, tác giả đã cho xuất hiện 2 “con bệnh” đến mức khó bề cứu chữa. Trớ trêu thay, họ là hai người em ruột của bà Sửu, lại từng đóng nhiều “vai” long trọng trong xã hội. Chức to nhất là Lương - Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên Trung ương Đảng; Trạch, cậu em út, Bí thư xã, Huyện ủy viên. Nghe tin bà Sửu trở về “chốn xưa” sau hơn chục năm đột quỵ phải sống với Thịnh ở Hà Nội, họ sang thăm. Tác giả đã “khéo” bố trí một bà già từng hôn mê ở bên cửa tử nhiều năm, nay lại tỉnh táo nhớ không sai mọi chi tiết ngôi nhà xưa cùng những “tai nạn” trút lên đầu mình, phải đối diện với 2 con người từng hô hét trước “thiên hạ”, về hưu rồi, vẫn chưa “tỉnh ngộ”, vẫn mê đắm lợi quyền, quen thói tráo trở như thời đương chức.
Cũng tương tự như thủ pháp đối sánh hai loại nhân vật ở trên, tác giả miêu tả tình yêu của cô Sửu chưa quá ba mươi tuổi với Hưng khi anh đã hy sinh từ thời chống Pháp - một tình yêu chỉ với vong linh, hình bóng anh thoáng hiện lại giữa khu vườn xưa - mà vẫn tha thiết, đắm đuối, cuồng nhiệt vô vàn; thì bên cạnh là cảnh tên Hào trơ trẽn, thèm khát người vợ liệt sĩ xinh đẹp, đã xông vào ngôi nhà trong đêm vắng hòng cưỡng chiếm cô, để rồi phải nhận cái chết khi cô vùng lên tự vệ. Thật xót xa khi Sửu phải nhận mức án tù 10 năm do “ngộ sát”!...
Với số phận một người chị phải chịu nhiều thua thiệt như thế, được đứa con trai duy nhất thì mịt mù ở chiến trường phía Nam, chưa biết có mang xác được về không, anh em Lương - Trạch mờ mắt vì lòng tham, đã nhẫn tâm làm mọi điều thất đức.
Qua màn đối thoại mấy chị em ngày gặp lại, xen lẫn hồi cố của những con người ruột thịt này, tác giả đã phơi trần sự tha hóa đến tột cùng của một lớp người có chức có quyền. Sự tha hóa vì độc quyền không mới, cũng chẳng có gì là “nhạy cảm” khi một người như Lương, không ép được bà chị nhượng bán đất ông cha nhà chồng để lại, đã lợi dụng lúc bà Sửu đột quỵ, cầm tay bà điểm chỉ vào giấy bán đất đã đánh máy sẵn; con dấu đỏ xác nhận thì đã sẵn trong túi cậu em là chủ tịch Trạch…
Tác giả còn lột trần những việc làm ghê tởm hơn nữa của Lương, mà chính con trai ông - đại tá Hội, không chút e dè nói thẳng trước mặt bố: “Tôi không tin mẹ tôi ung thư… Ông lăng nhăng quá thể, nên mẹ tôi ốm ông đã bỏ mặc… Ông là kẻ sát nhân nham hiểm hạng nhất… Ông đưa một y sĩ rởm đến nhà, tạo ra cái bình phong che chắn để thực hiện hành vi giết người!…”. Hội tố cáo bố với bà cô ngay lúc bà chưa hoàn hồn trước cảnh “mặt biển nương dâu” khi trở lại “chốn xưa” mà chẳng còn chi như xưa nữa! Chỉ một cảnh này đã làm chúng ta đau xót hơn cả sự tha hóa của một kẻ như Lương. Vì đây là “bằng chứng” về sự tan vỡ của gia đình - tế bào của xã hội. Gia đình sụp đổ, xã hội làm sao có thể yên bình?
*
Đất lạnh được tác giả chia làm 2 phần, có độ dày gần bằng nhau – mỗi phần trên 200 trang. Trong Phần 2, tác giả dành khá nhiều trang cho cuộc gặp lại nhau của đôi bạn Thịnh - Khang. Bằng thủ pháp hồi cố xen lẫn trong câu chuyện giữa hai người bạn cũ, tác giả đã cho bạn đọc biết “đoạn kết” chuyện tình duyên được mở màn từ hồi chiến tranh của họ… Cho dù vậy, sức “nặng” của Phần 2 và gắn với Phần 1 vẫn là sự tha hóa đạo đức, giả dối dẫn đến tan vỡ gia đình, nhưng “đau” hơn vì ở đây bi kịch diễn ra ở thế hệ tiếp nối. Cũng vẫn với thủ pháp đối sánh, bên mối tình thật đẹp dù vô vọng của cô giáo Bích với Thịnh là mọi sự tính toán thiệt hơn của chính bố mẹ cô (Tính và Lụa) trước khi kết hôn. Cả chị cô là Ngọc cũng không kém, khi lấy Đẩu là con trai của Trạch. Thậm chí vợ chồng Đẩu - Ngọc, còn đồng lõa với bố mẹ vì hám lợi đã bố trí “trận địa” cho tên lang băm Sơn mạo danh Giáo sư tiến sĩ y khoa… cưỡng đoạt Bích. Tôi hình dung ngòi bút của nhà văn từng là bác sĩ ngoại khoa sắc bén như con dao mổ, dù trong lòng yêu thương người bệnh rất mực, vẫn không thể run tay, phải kiên quyết cắt, khoét, loại bỏ nhưng ung nhọt làm hại cơ thể. Có phải vì thế mà “trường đoạn” miêu tả lang băm Sơn cưỡng dâm Bích không thành và suýt bị mất “của quý” cũng đã được tác giả thể hiện một cách dữ dội như cảnh bà Sửu đã “ngộ sát” tên Hào năm xưa.
Độc giả đọc Phần 1, chỉ mới thấy Đẩu thoáng xuất hiện, khi Trạch rất tự hào có con trai là tiến sĩ triết học, giảng viên chính trị, vừa được phong Phó giáo sư! Nhân vật Tính cũng chỉ xuất hiện trong 1 dòng ở Phần 1, khi nói đến ở làng bên có ba anh em Nhân – Tính - Toán cũng vì tranh giành đất đai mà hết tình nghĩa. Đến Phần 2 thì họ lộ mặt thật, càng làm chúng ta đau lòng khi họ được sống trong hòa bình, được học hành, thậm chí như cặp vợ chồng Đẩu - Ngọc và Tính - Lụa luôn tự hào là trí thức, nhà giáo ưu tú! Toán (em trai Tính) còn oai hơn, nhờ mua và xin, từ bằng trung học trở lên, đã kiếm được học vị tiến sĩ, có chỗ ngon lành ở cơ quan tổ chức chính quyền tỉnh, mặc dù đã nhượng bán lại phần vườn bố mẹ để lại cho ông anh cả là Nhân, nay đất gần đường quốc lộ thành nơi dễ thu tiền tỷ, liền về đòi lại, lấy cớ không có văn tự mua bán và đã ép Nhân ký giấy nhượng đất, sau khi đã làm người anh đang ốm đau chết ngạt trong chăn, tương tự bi kịch hai chị em Sửu và Lương! Vẫn chỉ vì những mảnh đất lạnh thời kinh tế thị trường lên ngôi đã thành đất vàng!
Khoa học không phủ nhận yếu tố “gien” di truyền - Phó giáo sư Đẩu, là con Trạch (Mà bà Sửu chỉ gọi tên lúc nhỏ là “Chạch”; cũng như gọi Lương là “Lươn” – bố mẹ đặt tên xấu để ma khỏi bắt! Nào ai ngờ, hai cậu em, sau khi thành cán bộ có quyền uy lại bị “con ma” tha hóa bắt làm nộ lệ!); nhưng bà Sửu với hai cậu em Lương - Trạch lại khác nhau như đen với trắng. Vậy là có yếu tố quan trọng hơn. Có thể đó là “cơ chế” hoạt động xã hội có gì đó bất ổn. Lý giải cặn kẽ điều hệ trọng này hẳn là thuộc bộ môn chính trị - xã hội học, nếu họ thực sự muốn làm khoa học. Còn nhà văn, chỉ gửi gắm những điều cảm nhận qua nhân vật. Ở Đất lạnh, ngay từ Phần 1 có đoạn: “Ngồi nghe hai ông em và người cháu lời qua tiếng lại, mà cụ Sửu ngơ ngác, xây xẩm, bàng hoàng… Không ngờ bây giờ gia phong nhà cậu ấy lại đổ đốn đến như thế…”. Bà Sửu “không ngờ” vì trong ký ức của mình, họ Lại của bà không giàu có bằng họ Đặng Vũ mà bà về làm dâu, nhưng bà nhớ “thuở xưa, những năm tháng các cậu ấy chưa đi công tác, chị em đều yêu thương nhau. Ai cũng thật thà, chất phác… Cái gì đã xúi bẩy, khích lệ tính tham và tính ác của hai đứa? Không biết chúng nó đã đi ăn cướp của thiên hạ được nhiều lắm chưa?…”. Liệu ai có thể trả lời được câu hỏi làm nhói buốt cả xã hội, chứ không chỉ với bà cụ già gần đất xa trời. Mà thực ra, đặt được “vấn đề” cũng đã bao hàm lời đáp. “Chưa đi công tác”, sống giữa làng quê thì họ vẫn biết “yêu thương”, vẫn “thật thà”… “Lời đáp” ở đây chứ đâu xa… Liệu có thể gọi đây là “minh triết dân gian” đang chờ các học giả làm sáng tỏ…
Riêng bác sĩ Thịnh, dù suốt đời đã sống với nhân cách sáng ngời như bố anh, ông nội anh, đã phải chịu thua khi quyết định đưa mẹ trở lại Hà Nội với sự an ủi rằng “Quan niệm về quê hương phải được mở rộng hơn xưa mới phải. Thủ Đô cũng là quê hương Việt Nam mình, chứ có xa lạ gì đâu!” Bà Sửu chiều theo con, mặc dù vẫn bảo Thịnh “phải mua lại tất cả cái vườn cũ của nhà ta… Nếu mẹ con mình tính không xong, thì anh phải tính đến đời sau… Nhất định ta phải lấy lại trọn vẹn vườn đất tổ tiên mình!”
Bà quyết liệt vậy, vì vẫn hy vọng con sẽ lấy vợ. Bà đeo máy nghe, đã biết Bích gọi điện cầu cứu Thịnh, sau vụ bị tay Sơn hãm hại, bố mẹ cô đã đưa cô vào bệnh viện tâm thần! Thịnh trở lại Hà Nội còn vì tiếng gọi của tình yêu. Mà một bác sĩ có lương tâm làm sao có thể từ chối lời mời gọi khẩn thiết của bệnh nhân! Nhưng còn căn bệnh của cả xã hội thì biết gọi ai bây giờ? Hở giời!
“Hở giời!” Đây cũng là tiếng gọi của bà Sửu trước cảnh nhà hai cậu em “mất phúc, dột từ nóc dột xuống!” Liệu có bao nhiêu người nghe được nỗi thất vọng tột cùng này của nhân gian?
Từ 15 năm trước, với truyện Nhân tài (Trong tập Nhân tài & Ngọn lửa - Nxb Hội Nhà văn 2004, tái bản 2005), Vũ Oanh đã bắt đầu cuộc “giải phẩu” sự tha hóa đạo đức xã hội với không ít “pha” dữ dội, đau đớn. Sau hơn chục năm “nghiền ngẫm” thực tại những biến động xã hội “thương hải tang điền, mặt bể nương dâu” như ông nội Thịnh từng thốt lên, Vũ Oanh viết Đất lạnh, cũng nhiều “pha” đau đớn, dữ dội, nhưng với chiều kích sâu rộng hơn nhiều.
_______
* Tiểu thuyết Đất lạnh của Vũ Oanh, Nxb Hội Nhà văn, 2020.
Nguồn Văn nghệ số 22/2021