Tấm thiện tình ấy đã nhen nhóm ngọn lửa viết lách trong anh, thúc giục anh miệt mài viết báo, làm thơ, sáng tác văn xuôi.
Không ít lần Ngô Mậu Tình chia sẻ với tôi niềm vui về một bài thơ mới hoàn thành: Có bài, cảm xúc tuôn trào mình viết trong vòng 10 phút. Tất nhiên, đọc thơ anh, không phải bài nào cũng hay và không phải bài nào cũng dở. Điều tôi thấy ở anh là một ý chí, bản lĩnh chưa bao giờ chùn bước. Anh nói, hễ có thời gian rảnh là mình ngồi viết, mình không đợi chờ cảm hứng mà chủ động tìm kiếm nó. Bởi nếu chỉ ngồi chờ, biết bao giờ mới trở thành một người viết chuyên nghiệp? Và trong những khoảnh khắc tự trói buộc ấy, thơ của anh ngày một dày dặn hơn, lần lượt được bạn đọc đón nhận. Tập thơ đầu tay Ngôi nhà chật tiếng cười là niềm vui sáng tạo của anh, ở đó, rung cảm giàu có, sâu xa của trái tim được gọi tên, lẩy ra qua những ám gợi, thặng dư của con chữ.
Cái đẹp trong thơ anh trước hết nằm ở sự tinh khôi, trong ngần của cảm xúc. Cảm xúc này lộ phát từ trái tim chân thành. Mặt khác trong sự cọ xát, trải nghiệm với vùng đất nơi anh sinh ra và lớn lên tôi còn thấy một “cấu trúc tinh thần” đắm đuối, yêu quý giá trị cốt tủy vững bền. Cái lẽ phải, thánh thiện của “miền tôi” trong anh vì thế như là gốc rễ, là bản lề, cho anh tâm thế chủ động nuôi dưỡng và định hình phong cách tổ chức ngữ nghĩa trong thơ.
|
Sự tinh khôi, trong ngần của cảm xúc trong Ngôi nhà chật tiếng cười được ảnh chiếu qua mối quan hệ gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tập thơ giao thoa giữa hai không gian: thị trấn và sơn cước, nơi anh đang sống và làm việc. Nếu như vẻ đẹp ban sơ, thanh khiết của bản làng, bếp lửa, cồng chiêng, nương, con suối, con khe, ngọn núi, đồi sim, lan rừng… đại diện đặc điểm nguyên sơ, thuần khiết của núi rừng sơn cước, thì hình ảnh cánh đồng, con sông, ao làng, đàn trâu, bờ tre… lại mang đến vẻ đẹp gần gũi, dân dã của miền quê sông nước. Không quá lời khi cho rằng thiên nhiên trong thơ anh hiện hữu như miền tinh thần của anh, là con người của anh. Một sự đồng nhất không cần dẫn hướng, thu xếp nào cả. Vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp thiên nhiên cùng nâng nhau lên, đan dệt nên không khí tự nhiên, khỏe khoắn cho tập thơ:
những hạt lúa tròn vú mẹ
chắt sữa đời con
(Mẹ và cánh đồng)
Chỉ khi tâm hồn ta biết rung động trước cái đẹp và nỗ lực vun đắp nó, ta mới thấu hiểu được những chuyển động diệu vi của thiên nhiên. Ngô Mậu Tình nhìn thiên nhiên không trong trạng thái tĩnh mà trong sự phì nhiêu, sinh sôi, tràn đầy sự sống. Anh sử dụng hàng loạt động từ mạnh, giàu tính tạo hình diễn tả sự bung nở khoáng đạt của vạn vật: mọc, nở, nẩy, trổ, ủ, thắp, đan, cuộn, xới, dậy, ngân, đổ, tấu, bạt, tràn, đâm, ngập, trĩu, trồi lên, chật, vang, rưới lên… Ngay cả thực thể nhỏ bé mong manh, tĩnh lặng như hạt sương cũng mang trong mình năng lượng vươn lên, trỗi dậy, hòa vào nhịp sinh trưởng không ngơi nghỉ của vạn vật:
những hạt sương rướn mình trên đọt lá
mỗi ngày thêm một tí tách
nở thực xanh
(Ánh sáng)
Với thi ảnh “hạt sương rướn mình”, anh đã chạm đến quy luật vận động bền bỉ của tự nhiên, mọi vật đều khởi trinh, hòa vào dòng chảy luân hồi của sự sống.
Bên cạnh sự vận động nội tại của các cá thể, Ngô Mậu Tình còn hướng đến sự cộng sinh giữa các cá thể. Không một sinh thể nào tồn tại độc lập, chúng luôn cần nhau, giao thoa, tương hỗ để duy trì sự sống, để tạo mạng lưới sinh thái:
hạt thóc chia đều lam lũ
theo nước mà xanh
(Theo nước mà xanh)
Thiên nhiên trong thơ anh đều hướng về sự tươi tốt, hướng về phía ánh sáng như hình ảnh Giọt sương chạm đóa bình minh; Gió đi hoang phía mặt trời; Những đám mây chờ gió/ bạc tóc rừng thiêng (Âm vọng)… Giọt sương, gió, mây được anh đặt trong cái nhìn móc xích với các sinh thể tự nhiên khác, chúng cùng nhau vận hành theo nguyên tắc điều bình sinh thái. Mô hình dịch chuyển từ giọt sương -> bình minh, gió -> mặt trời, mây -> gió vừa biểu thị sự trôi chảy tự nhiên của vạn vật vừa xác lập chỉnh thể sinh thái không thể tách rời và sự vô hạn của vũ trụ.
Không dừng lại ở thiên nhiên, vòng tái sinh còn được Ngô Mậu Tình quán chiếu vào tâm hồn con người, ấy là sự trở về của những điều tốt đẹp. Những giá trị tốt đẹp đó hiện diện xuyên suốt tập thơ: ân tình với bản làng, yêu thương học trò, tình cảm vô bờ bến dành cho bà, cha mẹ... Tình cảm với người bà được thể hiện tròn đầy trong khổ thơ: trong thì thầm giấc mơ của bà/ mùa màng vùn vụt lớn dậy/ ấm và thơm/ dọc triền sông nắng (Bà tôi). Hình ảnh người mẹ hiện lên dung dị ấm áp: gió úp mặt cánh đồng/ rét cuộn tròn bát cơm mẹ nấu/ mùa đông xoáy từng thớ thịt/ ký ức lên men (Ước mơ). Còn với cha, đó là hình ảnh tảo tần: mắt cha đọng phù sa mùa lũ/ manh áo mưa châm lạnh/ thửa ruộng bời bời trên tay (Bữa cơm thật thà). Như vậy, để cảm xúc trôi theo quy luật nguyên thủy của sự sống, tìm về giá trị của cội nguồn, anh đã tạo được vòng tái sinh tinh thần trong thơ - một sự luân hồi của dòng thiện lành.
Thơ Ngô Mậu Tình chảy theo mạch cảm xúc song không dễ nắm bắt. Anh không cố tình tạo sự huyền ảo hay ma mị trong câu chữ, mà đôi khi, chính những khoảnh khắc ngẫu hứng lại khiến con chữ tự quấn lấy nhau, tự va chạm, trổ những lát cắt ngữ nghĩa khá thú vị. Nói về sự hồi sinh, anh triết lí:
cỏ rợp hơn người
người xao động hơn cỏ
cỏ tái sinh
người vẫn khuyết bóng mình
(Vô thường)
Ở đây, cỏ và con người được đặt trong mối quan hệ đối sánh. Cỏ thuộc về tự nhiên, mang đặc tính hồn nhiên, vĩnh cửu, không tranh chấp, không đố kị, không ác ý. Trải qua sinh tử luân hồi, không cần nỗ lực hay đấu tranh, cỏ vẫn hồi sinh. Ngược lại, con người luôn mang trong mình những xao động, trăn trở. Điều này đẩy con người vào vòng xoáy tham vọng, tranh chấp, không bao giờ có được sự tái sinh trọn vẹn như cỏ. Để đạt được sự an nhiên và tái sinh về mặt tinh thần, con người cần học cách chấp nhận sự vô thường, buông bỏ những xao động trong tâm hồn.
Tuy nhiên, con người đâu chỉ bị ràng buộc bởi tham vọng hay tranh chấp mà còn bởi cách họ dò xét, thấu thị thế giới. Thông thường, ta hay phán xét mọi sự việc theo tư duy, quan điểm riêng, nhưng cũng có lúc, lối tư duy khác khiến ta phải suy ngẫm lại. Bọc kén trong thơ Ngô Mậu Tình là hình ảnh ẩn dụ quá trình tự nhận thức và đối diện “vết xước” của con người:
Chẳng khi nào tôi thấy kén đêm lộng lẫy
Ngoài những cái đuôi bị đánh cắp
Trong bóng tối
Có lẽ
Giữa bọc kén
Chúng ta thấy cả vết xước của nhau.
(Kén)
“Kén” hàm giấu không gian bó hẹp. Khi ở trong “bọc kén”, ta nhận ra những vết xước, những tổn thương, những bất toàn giăng đầy. Phải chăng chung cảnh ngộ, tương đồng hoàn cảnh, con người mới dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với nhau?
Từ vô thường của cỏ đến “vết xước” của con người, Ngô Mậu Tình luận bàn về sự tồn tại: chấp nhận những “vết xước” của bản thân và người khác, con người có thể tìm thấy sự tái sinh, đó là sự tái sinh trong nhận thức, trong lòng bao dung, trong khả năng buông bỏ những ràng buộc không cần thiết. Có lẽ, đây là phương cách tốt nhất để con người tự thoát ra khỏi “bọc kén” của chính mình.
Ngô Mậu Tình viết đều đặn, liên tục nhưng không bao giờ tự bằng lòng. Anh thường ngoảnh lại soi xét chính mình như người đọc xa lạ. Anh xây tổ con chữ trong gió bấc, tự đặt ra chướng ngại để thách thức những giới hạn: Sáng nay tôi nghe tiếng khóc từ ngàn xa/ Tiếng khóc của con chữ rong chơi/ Phiêu du cùng lá cỏ/ Trên giọt sương mai hạnh phúc an trú. (Nước mắt). Con đường viết này ít nhiều xác tín quá trình không ngừng chuyển dịch không ngừng vươn tới của anh. Vì thế, ngoài lòng đam mê, những con chữ trong Ngôi nhà chật tiếng cười còn là hiện thân cho tâm hồn, lẽ sống của anh.