Theo Nghị định, nội dung chuyển đổi số về di sản văn hóa bao gồm: xây dựng, quản trị, duy trì, vận hành, khai thác các nền tảng số, hệ thống thông tin quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa; xây dựng các bộ tiêu chuẩn dữ liệu số; tạo lập dữ liệu số phục vụ cho công tác truyền thông, quảng bá di sản văn hóa trên môi trường điện tử.
![]() |
| Nghị định 308 yêu cầu việc số hóa, lưu trữ, khai thác và sử dụng dữ liệu về di sản văn hóa được thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet |
Nghị định 308 cũng yêu cầu việc số hóa, lưu trữ, khai thác và sử dụng dữ liệu về di sản văn hóa được thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương, trên phương thức tôn trọng và có sự hợp tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; ưu tiên sử dụng công nghệ mã nguồn mở và phần mềm trong nước.
Sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy và phương thức vận hành, tạo sự thống nhất trong số hóa di sản. Việc số hóa được thực hiện từ hồ sơ và tài liệu cho đến việc ứng dụng công nghệ số vào bảo tồn và giám định, hướng tới mục tiêu cộng đồng có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận di sản.
Cũng tại Nghị định, những yêu cầu đối với công tác quản trị và vận hành dữ liệu số quốc gia về di sản văn hóa (Điều 88), cũng được hướng dẫn thực thi một cách khoa học, tạo hành lang pháp lý đồng bộ số hóa di sản và góp phần giải quyết triệt để rủi ro bảo mật, đồng thời bảo đảm tính toàn vẹn, cũng như quyền của chủ sở hữu hoặc quản lý di sản.
Phân tích về ưu điểm của Nghị định 308, giới nghiên cứu và chuyên gia về di sản ghi nhận, đây là bước tiến chiến lược, giúp di sản Việt Nam từ bảo tồn thụ động sang phát huy chủ động qua số hóa. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) khẳng định: “chuyển đổi số góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững”.
Thực tế cho thấy, số hóa di sản văn hóa không phải là công việc ngắn hạn. Nó đòi hỏi một chiến lược lâu dài và cần có sự phối hợp liên ngành mới có thể đạt được mục tiêu. Đồng thời, cần có chiến lược căn cơ như:
- Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa Việt Nam. Đây phải là nền tảng thống nhất, có chuẩn kỹ thuật chung, liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương. Mỗi di sản văn hóa cần có “mã định danh số”.
- Cần có kế hoạch lâu dài về đào tạo đội ngũ nhân lực số trong lĩnh vực văn hóa. Các trường văn hóa, nghệ thuật, bảo tàng cần mở chuyên ngành mới về công nghệ bảo tồn, kỹ thuật số hóa, quản trị dữ liệu văn hóa.
- Khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia như đối tác chiến lược.
- Ban hành cơ chế khuyến khích xã hội hóa và hợp tác công - tư. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây dựng chuẩn, còn doanh nghiệp có thể đảm nhận phần công nghệ, nền tảng, truyền thông. Sự hợp tác này sẽ thúc đẩy tiến trình số hóa nhanh và hiệu quả hơn.