Cái tên Mã Pí Lèng tôi gặp đầu tiên trong thơ Xuân Diệu. Thế mà mấy chục năm sau tôi mới được đặt chân tới. Đó là một ngày đầu năm 1982 khi tôi được tham gia chuyến đi thực tế biên giới phía Bắc của đoàn nhà văn Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đoàn có năm người. Khi đến Phó Bảng thì tách làm hai. Các anh Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, Vương Trọng thì cứ thẳng đường lên Đồng Văn, Lũng Cú. Còn tôi và Ngô Vĩnh Bình thì rẽ sang ngả Mèo Vạc. Từ Phó Bảng sang Mèo Vạc dứt khoát phải qua Mã Pí Lèng. Ôi! “Đến bây giờ mới thấy đây”. Mã Pí Lèng, tiếng đồn quả không sai. Trên chuyến xe khách chật ních người ấy, tôi ôm ba lô nhìn xuống dòng Nho Quế sâu hun hút, mảnh mai như một sợi chỉ. Con đường thì hẹp, chiếc xe phải bám vào vách đá mà nuốt đường. Đá! Hết núi này đến núi khác. Cả một thế giới đá. Hùng vĩ đến rợn ngợp. Lắm lúc tôi phải xếp sự hiếu kì vào một chỗ, quay mặt vào núi, không dám dòm xuống vực nữa. Tôi choáng thật sự. Nói dại, nếu chiếc xe chẳng may mà lật xuống vực thì sẽ biến thành sắt vụn là cái chắc. Mấy bận ra vào Trường Sơn rồi, bom đạn là thế, đèo dốc là thế nhưng tôi không hề bị choáng ngợp như lần này. Rồi thì chúng tôi cũng tới được Mèo Vạc, sống ở đó hai tuần với các đơn vị đang chiến đấu bảo vệ đường biên. Rồi thì bình thường hoá quan hệ hai nước và sau đó tôi có dịp trở lại Mèo Vạc một lần nữa. Lần này thì đường xá đã được mở rộng hơn trước nhiều. Tôi có thể thong dong lên Mèo Vạc, rồi quay lại lên Đồng Văn, Lũng Cú. Đó là một chuyến đi đầy cảm hứng. Chúng tôi đã quyết định ngủ lại dưới chân cột cờ Lũng Cú một đêm để cảm nhận cho hết cái cảm giác thiêng của vùng đất này.
![]() |
| Mã Pí Lèng hùng vĩ. Ảnh minh họa. Nguồn pinterest |
Hai chuyến đi đầy ắp kỷ niệm mà tôi chưa kịp viết gì cả, ngoài hai bài: Thư mùa đông và Qua cầu Tràng Hương, chủ yếu dành cho đồng đội. Tuy vậy, cái cảm giác rợn ngợp trong chuyến đi đầu tiên vẫn nguyên vẹn trong tôi. Với tâm trạng đó, tôi lật giở từng trang “Miền đất của trường ca” của Trần Khoái.
Trước hết phải nói tâm trạng của Trần Khoái rất giống ấn tượng lần đầu của tôi khi đặt chân lên cao nguyên đá. Hùng vĩ qúa và hiểm trở quá. Trước một thiên nhiên như thế, Trần Khoái khẳng định:
Chỉ trường ca
Và chỉ trường ca
Mới đủ sức trước một vùng đất nước
Mênh mông đẹp cũng mênh mông khắc nghiệt Nhân dân tôi ở giữa
Căng sức mình gìn giữ đất quê hương
Tôi hiểu hai chữ “Trường ca” ở đây không chỉ nhằm chỉ một thể loại thi ca mà là trường ca về vốn liếng, về tâm huyết, về trí tuệ và tình cảm. Một hiện thực lớn đòi hỏi phải có một tầm vóc lớn là như thế.
“Mênh mông đẹp cũng mênh mông khắc nghiệt” đúng là Trần Khoái đã chạm tới sự thử thách tài năng của cao nguyên đá. Mấy câu mở đầu trường ca vừa nói được cái bí mật thâm nghiêm của cả thế giới đá vừa hiển lộ được cái tình của thi nhân.
Lịch sử, nguyên sinh
Đá viết lên trời
Ta làm sao đọc được
Đành cúi xuống nhặt gom vương vãi
Những ly ty lấp lánh chuyện muôn đời
Thế là, từ di sản của thiên nhiên, tác giả chuyển cảm xúc của mình sang di sản của tình người.
Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trường ca.
Tôi không nhìn lên trời
Mà nhìn vào lưng em quẩy tẩu
Có hai quả bầu và chú lợn
Liệu đủ một ngày chợ phiên?
Ở đoạn thơ trên có sự gặp gỡ thú vị giữa hai nhà thơ Trần Khoái và Thanh Thảo. Một đằng viết về núi đá thời bình, một đằng viết về đêm ra trận trong chiến tranh. Cả hai đều lấy tấm lưng người làm đích đến. Trong bài “Một người lính nói về thế hệ mình” Thanh Thảo viết:
Lúc ấy chân trời là lưng người đi trước
Vụt loé lên qua ánh chớp màn mưa
Đây là sự gặp gỡ tình cờ nhưng không phải ngẫu nhiên. Họ giống nhau bởi đều tìm thấy nguồn thơ trong sự hướng tới con người. Mọi cố gắng hướng tới con người đều làm ta cảm động. Tiếp cận với thế giới đá, Trần Khoái phát hiện ra những tầng vỉa văn hoá ở trong nó, ở ngoài nó, đằng trước đằng sau nó. Chính điều này đã làm nên tầm cao và chiều sâu của bản trường ca này
Biên ải mong manh
Biên ải vững bền
Bởi neo giữ bằng tầng tầng văn hoá
Đã thành huyết mạch vùng biên
Thế là rõ. Người ta giữ biên ải bằng “tầng tầng văn hoá”. Vậy là văn hoá đã trở thành bức tường thành bất khả xâm phạm. Nó bền vững muôn thưở. Và chính nó sẽ làm nên tất cả những gì là cao cả, là thiêng liêng, là phi thường, là ấm lòng, là niềm tin, là hy vọng nơi sơn cùng thuỷ tận này. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nói “Văn hoá còn thì dân tộc còn”. Thật sâu sắc biết bao nhiêu.
Trong trường ca “Miền đất của trường ca”, Trần Khoái luôn nhắc đến em, một chữ em vừa cụ thể, vừa tượng trưng, vừa xa vừa gần, được anh xây dựng như nhân vật trữ tình thứ hai, lúc thì đối thoại, lúc thì bầy tỏ, làm nên những cung bậc thấm đẫm tình người.
Lời em dặn dịu dàng, mộc mạc
(Đừng theo người mình không biết)
Thế mà anh đi gần trọn cuộc đời
Mới thấm lẽ cái điều đơn giản ấy
Sau bao nhiêu vấp ngã, mất còn
Em đi rồi, tôi ngồi đợi bình minh
Cao nguyên nghiêng về phía chợ
Làng bản nghiêng về phía chợ
Người dồn về phía chợ
Biên ải một ngày trẻ thơ
“Một ngày trẻ thơ” là ngày gì? Thật đa nghĩa. Một cụm từ đặc quánh. Nói ít mà gợi nhiều. Nó mở ra những vùng liên. tưởng cho người đọc. Và với người đọc nó trở thành một cụm từ biết sinh nghĩa. Tuỳ theo vốn liếng, từng trải của anh để gọi rõ tên của “Ngày trẻ thơ” ấy cho riêng anh. Thế mới biết, sự hàm xúc trong thơ cần thiết và quan trọng đến mức nào.
Trở lại nhân vật trữ tình là em. Ở đoạn thơ vừa dẫn ở trên, em như một người tình. Bây giờ vẫn là em nhưng lại là em khác:
Trước đá Ta cúi đầu
Trước em ta muốn khóc
Nghẹn ngào nói lời thương
Ngày em địu phân dê, phân rơi lên núi
Chăm chia từng gốc ngô
Nương rẫy hanh hao gió mùa
Tiếng bìm bịp loãng chiều biên giới
Cái người làm cho nhà thơ “muốn khóc” ấy, chính là nhân dân đấy. Giữa “cúi đầu” và “muốn khóc”, cái nào vĩ đại hơn? Một đằng là lý trí, một đằng là tình cảm, anh chọn lối nào? Có lẽ là cả hai. Hai câu thơ như hai vế đối, cân xứng, trọn vẹn, hợp nhau lại tạc nên thế giới tâm hồn của nhà thơ. Cứ thế, dần dà từng bước, tác giả dẫn ta vào di sản của tình người.
Trong âm thanh như có gió Thượng Phùng
Lồng lộng thổi khi mùa thu chợt đến
Khi lắng vọng gợi một dòng Nho Quế
Khi dập dìu như qua dốc Chín Khoanh
Tôi nhìn lên trời xanh
Có điều gì mà trời xanh đến thế
Để bất chợt cầm tay em ấm nóng
Bao nhiêu bình yên từ những ngón tay mềm
Để ý kỹ, trong đoạn thơ trên, tác giả dẫn dắt rất khéo, từ thiên nhiên đến tình người. Bắt đầu từ “gió Thượng Phùng” rồi “mùa thu chợt đến” rồi “dòng Nho Quế”, “dốc Chín Khoanh” rồi đến cả “trời xanh” nữa, để rồi dẫn đến “để bất chợt cầm tay em ấm nóng, bao bình yên từ những ngón tay mềm”. Cứ từng bước, từng bước thiên nhiên kê thành những bậc thang để ta lên gặp tình người. Tác giả có sự gia công rất kỹ lưỡng trong đoạn thơ trên. Riêng câu thơ “bao nhiêu bình yên từ những ngón tay mềm” xứng đáng là một trong những câu thơ hay nhất trong trường ca này.
Là một thầy giáo dạy văn lâu năm ở Hà Tuyên khi chưa tách tỉnh, Trần Khoái đã dành cho những người đồng nghiệp trên cao nguyên đá những tình cảm sâu nặng, tình nghĩa biết bao.
Ở đâu cũng có mái trường
Bởi nơi nào không có trẻ em
Bàn chân em bám đầy đất đỏ
Chiều ngược đèo không mát tán cây che
Nơi mùa khô tìm nước dưới khe
Mỗi giọt nước giọt mồ hôi em đổi
Sáng rửa mặt nước đong bằng bát
Còn lại phần chăm sóc luống rau xanh
…Khi em sống bao mùa đông rét buốt
Sương làm mờ nét phấn bảng đen …
Khi đêm xuống ngọn đèn dầu cũng thiếu
Phố đông người đầu núi chỉ riêng em
Qua những đoạn thơ trên, cuộc sống của các cô giáo hiện lên thật gian nan và xúc động. Cuộc sống ấy, gian khổ ấy, thiếu thốn ấy, cô đơn ấy ai dám bảo không phải là một mặt trận. Những cái cảnh “Chiều ngược đèo không một tán cây che”, “Mỗi giọt nước giọt mồ hôi em đổi”, “Phố đông người đầu núi chỉ riêng em” bảo không cảm động, không trân trọng, cảm phục sao được.
Nếu như thiên nhiên trên cao nguyên đá không bút lực nào tả xiết được, thì trên những bản nghèo xa khuất kia cũng chất chứa tình người vô tận. Tự bao đời cảnh sắc và con người đã quấn bện như thế rồi. Chính sự hoà hợp đó đã làm nên bức tranh đầy đủ nhất, viên mãn nhất về vùng quê của các bản trường ca này. Đúng như Trần Khoái đã cảm nhận
Câu hát tựa vào người, người tựa vào câu hát
Dìu nhau qua những dốc đèo
Điểm mạnh và cũng là thành công nổi bật của của Trường ca “Miền đất của trường ca” chính là vẻ đẹp của trời đất và con người hoà quyện với nhau nơi địa đầu Tổ quốc như anh đã viết
Tên sông đẹp Như một câu thơ cổ
Làng mạc bâng khuâng suốt dải biên thuỳ
Nước xiết chảy về hoa văn sườn đá
Tôi bồi hồi trước Nho Quế chiều nay.
Sau khi dẫn người đọc qua những đỉnh đèo mây trắng phủ, qua những mùa đông cõng trên mình bao rét buốt, qua những tiếng khèn khắc khoải tìm nhau trong phiên chợ, Trần Khoái đưa người đọc bước từng bậc trên đỉnh trời Lũng Cú. Ở đó cả sông núi tụ về trong màu đỏ tươi của lá cờ Tổ quốc.
Qua dập dìu liên khúc của trường ca
Nay trở lại đường quen về Lũng Cú
Từ xa lắm đã thấy cờ Tổ quốc
Phấp phới bay trên đỉnh núi Rồng
Giọt nước mắt phút giây này thành thật, thiêng liêng quá.
Khi nhìn lên cờ Tổ quốc
Nơi địa đầu đất nước tung bay Cờ Tổ quốc bay
Cờ Tổ quốc bay Đỏ trời phương Bắc
Thật là một cảnh tượng thiêng liêng và gần gũi. Một bức tranh hoành tráng về Tổ quốc nơi biên giới, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc.
Vậy là, với trường ca “Miền đất của trường ca” Trần Khoái đã tiến hành một chuyến đi xa về nghiệp thơ của mình. Anh đã dồn hết tài năng và tâm huyết cho một bản trường ca công phu, thực hiện một lời hứa với chính mình sau khi đến cao nguyên đá lần đầu. Bây giờ thì đứa con tinh thần từng ấp ủ bao năm của anh đã ra đời và sống một cuộc sống riêng. Tôi tin rằng những ai đã cầm trên tay tập trường ca này nhất định sẽ tìm thấy những điều đồng cảm, đồng điệu từ một bản thông điệp giàu ký thác mà tác giả đã gửi đến chúng ta.
------------
Bài viết được rút từ tập "Ám ảnh chữ" của nhà thơ Hữu Thỉnh