Đây là hội thảo khoa học quy mô, mang tính liên ngành và khu vực, quy tụ các hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu văn học Đông Nam Á, đặc biệt là trong mối tương tác giữa văn chương, căn tính, chính trị và tiến trình kiến tạo quốc gia.
Trong phát biểu đề dẫn, PGS,TS Phạm Phương Chi đề cập, với các học giả Việt Nam, sự hiện diện của một nền văn học độc lập - không bị chi phối hay bị đô hộ bởi các nền văn hóa, chính trị bên ngoài - ở các quốc gia Đông Nam Á dường như là câu hỏi nghiên cứu đau đáu và trăn trở nhất.
"Hội thảo tiếp cận văn học Đông Nam Á như là những biểu đạt và hình ảnh mang tính văn học có khả năng tham gia vào các vấn đề hiện đại hóa, phân chia giai cấp, xung đột chủng tộc, mâu thuẫn tôn giáo, các định kiến về giới, và các phê bình về môi trường, sinh thái ở các nước Đông Nam Á trong quá trình xây dựng quốc gia hậu thuộc địa". PGS,TS Phạm Phương Chi khẳng định.
![]() |
| Toàn cảnh hội thảo "Văn học và xây dựng quốc gia ở Đông Nam Á: Các vấn đề lý thuyết và ứng dụng". Ảnh: BTC |
Bên cạnh đó, hội thảo có thể gợi dẫn người đọc ra khỏi ý niệm "dân tộc" như một phạm trù thuần chính trị hay thuần túy thuộc địa hạt cảm xúc để khơi dậy những tò mò trí tuệ về lý do tại sao chúng ta có thể cảm thấy gắn bó, thân thuộc với những người tình cờ sống trên cùng một đất nước hơn là những người sống ở nơi khác; tại sao chúng ta có thể cảm thấy đồng điệu về tư tưởng với những người sinh ra trên cùng một đất nước hơn là những người sinh ra ở nơi khác; tại sao có những người sẵn sàng hy sinh bản thân cho những người thuộc cùng về một dân tộc cho dù họ chưa từng gặp mặt.
Hội thảo được kỳ vọng mang đến những phương diện, những khoảnh khắc của bức tranh văn học Đông Nam Á vốn đa dạng và không ngừng được tạo nghĩa nhờ những cách tiếp cận khác nhau. Những nghiên cứu trường hợp trong Hội thảo có thể xác nhận hoặc có thể đối thoại với lý thuyết văn học và dân tộc mà các nhà lý luận và phê bình phương Tây đã đề xuất.
![]() |
| Các đại biểu trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh: BTC |
Hội thảo khoa học được chia làm 2 phiên:
- Phiên đầu tiên với sự chủ trì của Tiến sĩ Hoàng Tố Mai có nội dung nổi bật là các công trình nghiên cứu khai thác vấn đề di cư, đô thị hóa và giải thuộc địa từ góc nhìn văn học.
- Phiên thứ hai với sự chủ trì của Tiến sĩ Đỗ Hải Ninh mở rộng bình diện nghiên cứu sang lý thuyết dân tộc chủ nghĩa, truyền thống lịch sử và văn học tiền hiện đại.
Tham luận của Trần Đức Dũng (Đại học Sư phạm Hà Nội) bàn về "phương thức chính danh hóa" trong văn học Lý-Trần, cho thấy văn chương trung đại không đơn thuần là công cụ tuyên truyền mà còn là kênh kiến tạo chuẩn mực đạo đức, trật tự và quyền lực văn hóa. Nhà phê bình văn học Đoàn Ánh Dương đặt vấn đề lại về Nguyễn Văn Vĩnh đầu thế kỷ 20 với nhiều nỗ lực hiện đại hóa ngôn ngữ và xuất bản.
Các bản tham luận tại Hội thảo đều làm nổi bật một vấn đề đang rất được quan tâm: đô thị như một cấu trúc biểu tượng trong văn học hiện đại Đông Nam Á. Các nghiên cứu của Hán Thị Thu Hiền và Lê Thị Nga (Đại học Hùng Vương) về truyện ngắn đương đại Lào, của Đặng Lê Tuyết Trinh về các tác phẩm của Alfian Sa’at (Singapore) và Nguyễn Thị Thu Huệ (Việt Nam), đã cho thấy hình ảnh đô thị không còn là bối cảnh tĩnh mà trở thành công cụ ngữ nghĩa để văn học chất vấn các chuẩn mực giới, chế độ hôn nhân và sự dịch chuyển của bản sắc cá nhân trong xã hội hậu thuộc địa.
Trong mảng nghiên cứu văn học cận-hiện đại, tham luận của Lưu Ngọc An về Nam Phong tạp chí, và cách tạp chí này tiếp nhận E. Renan hay A. Fouillée, chỉ ra mối liên hệ phức tạp giữa dịch, viết lại và kiến thiết dân tộc với quá trình chuyển ý thức hệ.
Chọn hướng tiếp cận về ký ức và biểu tượng dân tộc trong văn học hiện đại. Nguyễn Thị Hồng Hạnh khai thác hình tượng con trâu như một hoán dụ dân tộc trong truyện ngắn của Lê Quang Trạng, trong khi Lê Thị Hương Thủy lại đặt vấn đề từ mái tóc phụ nữ – tưởng như thuần mỹ học nhưng lại ẩn chứa các tầng lớp căn tính và giới tính trong văn hóa Việt.
Một số tham luận mang đậm tính liên văn hóa và liên ngành, như của Nguyễn Phương Anh-Phạm Phương Chi (đối sánh Ayu Utami-Nguyễn Khắc Ngân Vì), hoặc Mai Thị Thu Huyền-Lê Thị Dương, đặt trọng tâm vào cộng đồng cảm xúc trong thơ kháng chiến Việt Nam. Họ cho thấy nước mắt là biểu tượng của một tập thể đau thương, kiên cường và tưởng niệm - yếu tố không thể thiếu trong hành trình xây dựng bản sắc dân tộc qua văn học.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về văn học Campuchia, văn học Lào và Nhật Bản từ góc nhìn so sánh (Tăng Văn Thòn, Khương Việt Hà…) cũng góp phần mở rộng bản đồ lý luận văn học Đông Nam Á, nhấn mạnh tới những liên hệ nội khối và tầm quan trọng của liên ngành trong các nghiên cứu hiện đại, góp phần nêu bật vai trò của văn học trong việc xây dựng một quốc gia ở khía cạnh ký ức, cảm xúc và biểu tượng. Dù các quốc gia Đông Nam Á có những đặc điểm lịch sử, ngôn ngữ và địa chính trị khác nhau, song, đều chung một thực tại hậu thuộc địa phức tạp, đòi hỏi văn học phải liên tục tái định nghĩa chính nó trong sự va đập với hiện thực.