Gần đây trên Facebook cá nhân, họa sĩ - nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đăng viết: “Trường Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD) đã khai sinh ra nền mỹ thuật Việt Nam, chứ không phải ‘mỹ thuật hiện đại’ Việt Nam”.
![]() |
| Phù điêu Đản sinh Brahma Mỹ Sơn E1, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, được công nhận là Bảo vật quốc gia. Ảnh: CỤC DI SẢN VĂN HÓA |
Tôi đọc câu ấy không chỉ bằng ánh mắt của một người yêu nghệ thuật, mà bằng nhịp tim ngỡ ngàng của một người Việt Nam sống - sáng tạo - và thực hành trong không gian nghệ thuật của dân tộc mình. Một người từng đứng lâu trước một trống đồng vỡ quai, một pho tượng sa thạch cụt tay, một cột đá phủ rêu ở chùa Dạm… mà vẫn cảm nhận được trong đó sức ngân trầm của một nền văn minh rực rỡ.
Tôi cũng đã đọc cả bài luận ông đính kèm. Rất chặt chẽ. Rất mạch lạc. Ông lý giải từ khái niệm “fine arts” trong tư tưởng châu Âu, phân biệt với mỹ nghệ, và nhấn mạnh việc tách mỹ thuật ra khỏi chức năng, tín ngưỡng, để trở thành biểu hiện cá nhân hóa - thuần túy vì cái đẹp, vì triển lãm, vì phê bình.
![]() |
| Bức chạm “Đá cầu” trên đình làng Thổ Tang, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là tỉnh Phú Thọ). Ảnh: FBĐLTT |
Tôi hiểu điều ông nói. Và tôi tôn trọng hệ tư tưởng mà ông trung thành. Nhưng chính ở đó, tôi thấy cần lên tiếng. Bởi nếu ta định nghĩa mỹ thuật Việt Nam bằng một tiêu chuẩn du nhập duy nhất, thì chẳng khác nào dùng thước đo ngoại lai để xóa bỏ cả một dòng chảy nghệ thuật đã tồn tại, phát triển và thăng hoa qua nhiều giai đoạn, nhiều thiên niên kỷ.
Mỹ thuật Việt Nam không bắt đầu từ chữ ký. Nó bắt đầu từ khi con người khắc lên đồng, lên đá, lên những mặt trống ngân vang giữa trời đất và để lại trong đó cả thế giới của mình.
Nếu trước MTĐD, ta “chỉ có nghệ thuật dân gian”, thì trống đồng Ngọc Lũ là gì? Những pho tượng đá của người Chăm, cột biểu đá chùa Dạm, những phù điêu đình làng Bắc Bộ, bát men ngọc thời Lý - tất cả là gì?
Chúng không có tên tác giả. Không dành cho triển lãm. Không phê bình nghệ thuật. Nhưng trong đó là tư duy tạo hình, nhịp điệu thị giác, kỹ thuật tinh xảo và chiều sâu tâm linh - những yếu tố không thể thiếu của một nền mỹ thuật đích thực.
Hãy nhìn vào trống đồng Ngọc Lũ - đừng chỉ nhìn bằng mắt sử học, mà bằng mắt của người làm nghệ thuật. Những vòng tròn đồng tâm, những đoàn người hóa chim, những ngôi sao 14 cánh - đó là vũ trụ quan bằng hình khối, là triết lý hóa thân trong chất liệu. Một chiếc trống như vậy - cao lớn, cân xứng, vang âm và giàu biểu tượng- không thể chỉ là “thủ công dân gian”. Đó là mỹ thuật. Là kỹ nghệ kim loại đỉnh cao. Là một hệ tư tưởng thẩm mỹ chưa từng cần gọi tên.
Và hãy nhìn vào những ngọn tháp gạch ở miền Trung - từ Mỹ Sơn đến Bình Định. Không vữa mà vẫn đứng vững hàng thế kỷ. Không ánh đèn chiếu sáng mà vẫn toát lên thần khí. Ở đó, gạch đá không còn là vật liệu, mà là một ngôn ngữ thẩm mỹ linh thiêng. Tỷ lệ, nhịp điệu, ánh sáng, chiều sâu biểu tượng - mọi yếu tố tạo hình đều hiện diện. Nếu những công trình ấy không phải là “mỹ thuật” - thì định nghĩa mỹ thuật còn có nghĩa gì?
Một nền nghệ thuật không có ký ức thì không thể có bản sắc. Nếu ta phủ nhận mọi thành tựu tạo hình trước MTĐD chỉ vì chúng không mang chuẩn “fine arts”, thì vô tình ta đã rút ngắn toàn bộ chiều dài lịch sử mĩ thuật Việt Nam, biến nó thành một “tiền sử nghệ thuật” - như thể chỉ khi được “khai sinh” bởi phương Tây, người Việt mới biết sáng tạo.
Một cái trống đồng, một cột biểu đá, một phù điêu Chăm, một pho tượng Phật, một mái đình chạm khắc - tất cả đều chứng tỏ một hệ thẩm mỹ bản địa đã hình thành, phát triển, thăng hoa từ tín ngưỡng, cung đình, dân gian - từ đất đai, từ ánh sáng, từ niềm tin vào cái linh thiêng và cái đẹp.
Trường Mỹ thuật Đông Dương không phải khởi điểm, mà là một khúc rẽ. Một cuộc đối thoại với phương Tây. Nó mang đến phối cảnh, giải phẫu, kỹ thuật sơn dầu… nhưng nó không “khai sinh” ra mỹ thuật Việt Nam. Nó mọc lên từ một nền đất đã có - chứ không được gieo trên khoảng trống.
Không có cái cây nào mọc từ ngọn. Mỹ thuật Việt Nam có rễ. Và những rễ ấy rất sâu.
Sâu đến mức đứng trước một bức phù điêu Champa, ta có thể nghe được tiếng gió thổi qua thiên niên kỷ. Sâu đến mức chỉ một nét khắc trên gốm, cũng có thể kể lại cả quan niệm về sinh - tử, về vũ trụ, và về con người.
Tôi không viết những dòng này để phản bác cá nhân ông Nguyễn Đình Đăng. Trái lại, tôi tôn trọng ông - một người có tài năng và đóng góp. Nhưng tôi viết vì tôi không muốn một câu nói có phần chủ ý - dù ngắn - lại làm mờ cả nghìn năm lịch sử tạo hình. Chúng ta có quyền yêu mỹ thuật hiện đại, nhưng cũng có bổn phận giữ gìn ký ức thị giác dân tộc. Mỗi pho tượng cụt tay, mỗi nụ cười đá phai màu, mỗi công trình phủ rêu - đều đang đòi lại danh xưng mỹ thuật đúng nghĩa.
Vì tầm ảnh hưởng của ông, một phát biểu như thế có thể tác động đến nhận thức không chỉ của những người nghiên cứu, mà còn của thế hệ trẻ đang hình thành tư duy nghệ thuật. Khi người trẻ tiếp nhận những khái niệm này, họ có thể dễ dàng mặc định rằng mỹ thuật chỉ có thể bắt đầu khi được “khai sinh” từ phương Tây, và mọi giá trị nghệ thuật trước đó chỉ là những “tiền mỹ thuật”, những sản phẩm thô sơ. Điều ấy rất nguy hại. Nó có thể làm lệch lạc sự hiểu biết về nghệ thuật Việt Nam, dẫn đến việc coi nhẹ và không trân trọng những giá trị tạo hình sâu sắc đã tồn tại từ ngàn đời nay.
Nếu phải nói lại, tôi tin rằng nên nói thế này: “Trường Mỹ thuật Đông Dương khai sinh ra mỹ thuật hiện đại Việt Nam theo mô hình phương Tây. Nhưng mỹ thuật Việt Nam - như một nền văn hóa thị giác bản địa - đã hình thành từ lâu, rất lâu trước đó, với hệ giá trị riêng, động cơ sáng tạo riêng, và ngôn ngữ biểu đạt riêng.”
Không có rễ, làm sao có ngọn?
Không có ký ức, làm sao có bản sắc?
Một dân tộc có thể học từ thế giới, đi cùng thế giới, thậm chí vượt lên thế giới - nhưng sẽ không thể đứng vững nếu đánh mất chính mình.
Vì vậy, đôi khi một câu nói ngắn - nếu thiếu cẩn trọng - lại có thể gây nguy hại.