Hạt gạo làng ta là bài thơ của “Thần đồng thơ” Trần Đăng Khoa viết khi 10 tuổi (năm 1968), cách đây 53 năm hơn 1/2 thế kỉ. Bài thơ in trong tập Góc sân và khoảng trời xuất bản lần đầu vào năm 1968 và in trong sách giáo khoa Văn lớp 5 (tập 2, Nxb Giáo dục, 1989), hiện ở trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 (tập 2).
![]() |
Nhà thơ Trần Đăng Khoa (Trái) và Nhạc sĩ Nguyễn Viết Bính |
“Hạt gạo làng ta/ Gửi ra tiền tuyến/ Gửi về phương xa”, ngày ấy viết câu thơ này, chắc cậu bé Trần Đăng Khoa cũng mang bầu nhiệt huyết, hơi thở của năm tháng chiến tranh. “Hạt gạo làng ta” gửi ra tiền tuyến nuôi quân đánh giặc thì chắc rồi, còn câu thơ “Gửi về phương xa” là liền mạch của âm hưởng trong thơ “làng ta” và “phương xa”. Cậu bé Khoa 10 tuổi ngày ấy, cũng không thể biết câu thơ: “Hạt gạo làng ta… Gửi về phương xa”, sẽ được cắt nghĩa phương xa là ở phương nào? Trần Đăng Khoa ngày ấy cũng không thể nghĩ “Hạt gạo làng ta… Gửi về phương xa” sẽ như một lời tiên đoán về một ngày “Hạt gao làng ta” sẽ xuất khẩu tới phương xa năm châu bốn biển.
Hạt gạo làng ta của “thần đồng thơ” ngày ấy “Có vị phù sa/ Của sông Kinh Thầy” quê hương Khoa, “Có lời mẹ hát/Ngọt bùi đắng cay”. Hạt gạo ấy đã theo nhà thơ nhỏ mà “Gửi ra tiền tuyến/ Gửi về phương xa/ Em vui em hát/ Hạt vàng làng ta...”. Hạt gạo làng ta, không chỉ thấm đẫm vị phù sa của dòng sông quê hương, thấm đẫm những ngọt bùi đắng cay trong lời mẹ hát, mà vượt lên cả thiên tai nắng hạn, bão giông, “Hạt gạo làng ta/ Có bão tháng bảy/ Có mưa tháng ba/ Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng sáu”. Hạt gạo làng ta còn có cả công sức của lớp măng non chủ nhân tương lai của đất nước, vì “Có công các bạn/ Sớm nào chống hạn/ Vục mẻ miệng gàu/ Trưa nào bắt sâu/ Lúa cao rát mặt/ Chiều nào gánh phân/ Quang trành quết đất”. Bằng ngôn ngữ thơ, Trần Đăng Khoa tả cảnh, đúng là các bạn nhỏ tát nước không đủ sức như người lớn khi kéo gầu sòng, gầu giai, đã làm mẻ miệng gầu. Tôi đã từng có tuổi thơ ở làng, cũng đã đi tát nước làm mẻ miệng gầu, cũng đã đi bắt sâu làm cỏ ở cái tuổi mà cây lúa cao hơn mặt mình, nên lá lúa cào rát mặt, cũng đã đi gánh phân bằng quang trành của người lớn, mình thì thấp nhỏ, nên quang trành quết đất. Chỉ có những người có tuổi thơ ở làng như thế, mới thấy cái thực, cái hay, thực đấy mà vẫn thơ đấy của “Thần đồng thơ” Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa không là cậu bé lớn lên ở làng quê, chắc không có được cái nhìn chân thực như thế. Như nếu không phải là cậu bé Khoa “Thần đồng thơ”, thì dẫu có tuổi thơ ở làng, chắc không thể có bài thơ Hạt gạo làng ta để đời như vậy.
Công việc nhà nông, chân lấm tay bùn, bón phân, làm cỏ, là công việc bình thường vất vả, Trần Đăng Khoa đã chọn được những động từ mạnh, cùng với phụ từ, tạo nên cụm từ sát hợp như “Vục mẻ; Bắt sâu; Rát mặt; Gánh phân; Quết đất”… những động từ trên nghe chẳng thơ mà làm nên cái thật cái hay, rất thơ của công việc nhà nông, có tuổi thơ góp sức. Thành quả của sức người nuôi cây lúa trên đồng, vượt nắng hạn, mưa sa, mà lớn lên, cũng giống như xóm làng ngày ấy, vững vàng qua bom đạn chiến tranh “Những năm bom đạn/ Trút trên mái nhà”. Nhưng những xóm làng nhỏ trên quê hương Việt Nam vẫn tiễn đưa người thân ra chiến trường: “Những năm cây súng/ theo người đi xa”. Cây lúa trên cánh đồng quê cũng đã qua rồi tháng năm bom đạn, qua cả thời thiên tai nắng hạn, bão giông, cũng là trận chiến của nhà nông với thiên nhiên: “Có bão tháng Bảy/ Có mưa tháng Ba/ Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng Sáu/ Nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy...”. Khổ thơ này đã khắc họa bức tranh một bên là thiên nhiên khắc nghiệt, một bên là con người chống chịu vươn lên, dù có bão, có mưa, nước đồng nóng như ai nấu, cua phải ngoi lên bờ, chết cả cá cờ, thì mẹ em vẫn xuống đồng đi cấy, phải đổ giọt mồ hôi, để cho “Hạt gạo làng ta” là hạt vàng, hạt ngọc... Hạt vàng hạt ngọc là “Hạt gạo làng ta/ gửi vào tiền tuyến / Gửi về phương xa/ Em vui em hát/ Hạt gạo vàng ta”
Bài thơ mở đầu với khổ thơ “Hạt gạo làng ta” thì cũng khép lại vẫn khổ thơ ấy, nhưng đã đổi chỉ một từ thành“Hạt gạo vàng ta”. Đây là chủ ý, nhưng cũng là duyên thơ của Trần Đăng Khoa, bởi dù Khoa có rất nhiều bài thơ, nhưng cũng rất khó tìm bài thơ nào có cấu tứ mở đầu và kết thúc như “Hạt gạo làng ta” và “Hạt vàng làng ta”. Chính vì sự độc đáo này, mà Hạt gạo làng ta năm tháng mãi ngân nga, vang xa và lắng đọng trong tâm hồn người yêu thơ Việt Nam, nhất là khi bài thơ được nhạc sĩ Nguyễn Viết Bính phổ nhạc năm 1971, trở thành bài ca đi cũng năm tháng. Ca khúc Hạt gạo làng ta đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tôn vinh là một trong những tác phẩm hay nhất viết về nông thôn, nông dân kể từ năm 1946 đến nay, được bình chọn là một trong năm mươi bài hát thiếu niên hay nhất thế kỷ XX, trở thành tác phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Nguyễn Viết Bính trong giải thưởng Văn học nghệ thuật Nhà nước năm 2017.
Hạt gạo làng ta từ cuộc đời thực bước vào trong thơ, lại từ trong thơ bước ra cuộc sống “Hạt gạo làng ta… Gửi về phương xa”, theo mỗi chuyến tàu vượt đại dương “Hạt vàng làng ta” gửi đến bạn bè năm châu bốn biển.
“Hạt gạo vàng ta” giờ đây thật hãnh diện, có thương hiệu và ngôi vị cao, mang tên gạo thơm ST25 của Sóc Trăng, gắn liền tên tuổi của kỹ sư Hồ Quang Cua. Gạo thơm ST25 nhiều năm liền là gạo ngon nhất trong các hội thi trong nước và tại Hội nghị Thương mại Gạo thế giới tại Manila (Philippines), ngày 13/11/2019, đã công nhận ST25 là “Gạo ngon nhất thế giới 2019”. Năm 2020, gạo ST25 được công nhận gạo ngôn thứ nhì thế giới.
Hạt gạo làng ta, gạo Việt Nam của công cuộc đổi mới và hội nhập, giờ đây đang hướng tới tầm nhìn năm 2030, phấn đấu tới mục tiêu gạo trở thành thương hiệu hàng đầu thế giới về chất lượng, an toàn thực phẩm.
Hạt gạo làng ta… Hạt vàng làng ta… vẫn mãi ngân nga và vang xa… hạt gạo Việt Nam.
Nguồn Văn nghệ số 11/2021