![]() |
| Nhà biên kịch Phạm Lăng Quang |
Những năm 1970 chiến tranh đã hết sức ác liệt, từ những cung đường tả tơi vì bom đạn, gần hai trăm người lính vận tải quân sự vốn là những pháo thủ áo quần còn khét lẹt khói bom, những lái xe vận tải quân sự mắt thâm quầng vì những đêm không ngủ đưa hàng lên phía trước, những chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong trên những tuyến đường dày đặc bom đạn, những chiến sĩ giao liên, cứu thương, kho vận nơi những cánh rừng xa xôi hẻo lánh sơn cùng thủy tận của đất nước... được đưa về tập huấn văn nghệ, xây dựng những chương trình biểu diễn mới trong các đội tuyên văn của các binh trạm, trong đó có Binh trạm 13 của chúng tôi, để rồi một thời gian ngắn sau sẽ trở lại phục vụ ở mặt trận.
Được về Hà nội (nói đúng hơn là về Thường Tín, lúc ấy còn thuộc tỉnh Hà Tây), ai cũng thích. Nhưng để tập huấn trở thành những "nghệ sĩ", dù chỉ là bán chuyên nghiệp, đàn hay múa giỏi làm rung động lòng người... thì chúng tôi đều hiểu là thật chẳng dễ dàng gì. Cho nên cũng nhiều anh hãi, cứ nằng nặc một, hai đòi trở lại đơn vị chiến đấu...
Thì may thay trong bối cảnh ấy, chúng tôi được gặp những người thầy - những nghệ sĩ giàu kinh nghiệm của Đoàn Văn công Tổng cục, của trường Nghệ thuật Quân đội, của những Nhà hát Trung ương như Nhà hát Chèo, Nhà hát Kịch nói Trung ương, của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam và đặc biệt là của đội tuyên văn Cục Vận tải quân sự. Họ đã vì yêu quý người lính mà đến với chúng tôi bằng tất cả trái tim và nhiệt huyết của mình. Tôi được quen nhà biên kịch Phạm Lăng Quang (người có tên thật dễ nhớ vì lính ta tếu táo cứ gọi đùa anh là lăng quăng) chính trong dịp này, cùng các anh, các chị của đội tuyên văn và phòng chính trị Cục Vận tải quân sự như nhạc sĩ Xuân Huấn, nhà thơ Trần Nhương. Các anh xuống "ba cùng" với lính binh trạm chúng tôi, giúp đỡ xây dựng các tiết mục cho các đội tuyên văn các binh trạm.
Ngoài nghĩa chung, tôi sớm thân thiết với anh Lăng Quang còn vì một chút tình riêng: Mẹ tôi là một ca sĩ, còn anh Lăng Quang có vợ là em ruột một ca sĩ rất nổi tiếng, là nghệ sĩ Quý Dương, cũng là một người bạn nghệ thuật rất thân thiết với mẹ tôi. Bởi thế, tôi và anh Lăng Quang sớm thành thân, anh hay đưa tôi về nhà chơi, đãi đằng tôi cơm nước, anh đánh ghita và ngồi hát cho thằng em nghe. Cũng xin được nói thêm, anh luôn coi tôi là một đồng đội, một thằng em thân thiết, dù anh hơn tôi cũng gần một con giáp, có vợ con đề huề, sống trong một ngôi nhà rất khang trang ở ngõ Lương Sử B gần Văn Miếu, Hà Nội kể như rất vương giả ngày ấy...
![]() |
| Nhà biên kịch Phạm Lăng Quang, nhà thơ Trần Nhương và các cây bút Cục Vận tải quân sự |
Thân thiết với anh, tôi mới hiểu anh thuộc diện "con nhà", nhưng cũng thuộc lớp thanh niên ưu tú Hà Nội ngày ấy, say mê lý tưởng và rất yêu nghệ thuật. Anh lên đường nhập ngũ từ rất sớm, khi cuộc chiến tranh mới nổ ra trên miền Bắc, được đào tạo là một lái xe hỏa tuyến và đã sớm vào công tác tại các tuyến đường đan lửa miền Trung. Sau này, khi Cục Vận tải quân sự thành lập đội tuyên văn đi lùng khắp các binh trạm tuyển nhân tài văn nghệ, thì người lính lái xe tay luôn ôm cây đàn ghita này được phát hiện, được đưa ngay về đội, trở thành một hạt nhân quý hiếm của đội. Anh vừa tham gia hát tốp nam, diễn kịch và sau này kiêm luôn nhiệm vụ sáng tác các vở kịch nói về những tuyến đường ra trận cho đội biểu diễn. Là một lái xe chiến trường dặn dày kinh nghiệm, nhiều phen ra sống vào chết, nên kịch anh đầy ắp tư liệu sống, rực rỡ chiến công và cũng luôn ấm áp tình đồng đội (như các vở Vầng trăng trên trọng điểm hay Con đường và đồng đội). Thêm nữa, ngoài đời anh là người rất có duyên, nên kịch anh lúc nào cũng vui nhộn, tếu táo đầy chất lính, nên lính ta rất thích và truyền thêm được nhiều niềm lạc quan cho khán giả...
Trong đợt tập huấn, các đội văn nghệ xem biểu diễn và giao lưu với nhau. Quả là đội của Cục bao gồm các anh Trần Nhương, Lăng Quang, Xuân Huấn, Ngọc Thạc... ấy chuyên nghiệp và điệu nghệ hơn các đội binh trạm chúng tôi rất nhiều. Họ có thể coi đều là những ngôi sao nghệ thuật của những tuyến đường ra trận. Tiếng đọc thơ và hát tốp nam của anh Trần Nhương, tiếng đàn Accordion và các bài hát sáng tác của anh Ngô Xuân Huấn (bài hát Tùng Cốc của anh phổ thơ anh Phạm Tiến Duật được lính ta rất thích), những vở kịch và do chính tác giả cũng lên sân khấu biểu diễn của anh Phạm Lăng Quang... đều được các chiến sĩ vỗ tay hoan nghênh bỏng rát và nhiều năm sau vẫn còn in dấu trong tâm khảm người xem.
![]() |
| Nhà biên kịch Phạm Lăng Quang, nhà thơ Trần Nhương và các cây bút Cục Vận tải quân sự |
Sau đợt tập huấn nghệ thuật ấy, chúng tôi trở về binh trạm đi biểu diễn phục vụ chiến sĩ mãi tận Xiêng Khoảng, Cánh đồng Chum. Nhưng may thay chỉ một thời gian ngắn sau, tôi lại được binh trạm cử về trại sáng tác của Tổng cục Hậu cần tại công trường 800 (đường Hoàng Quốc Việt hiện nay), được gặp lại anh Phạm Lăng Quang. Anh kể như hạt nhân văn nghệ của Cục Vận tải quân sự lên tham gia trại viết của Tổng cục. Và ở đây hai anh em càng thân thiết nhau hơn, cùng sáng tác được những kịch bản được trại viết đánh giá cao. Với tôi là kịch bản kịch nói Mạch ngầm. Với anh Lăng Quang là kịch bản Con đường và đồng đội. Ngay lập tức, vở kịch này của anh được dàn dựng ngay trên sân khấu Đoàn kịch nói Tổng cục Hậu cần non trẻ, do đoàn trưởng Văn Thơm trực tiếp làm đạo diễn, người đóng vai chính là diễn viên Duy Hậu (sau này rất nổi tiếng ở Nhà hát Tuổi trẻ, còn khi ấy là một lái xe của binh trạm Khe Hó, Quảng Bình, mới được gọi về đoàn).
Nói thật, vở diễn ấy được diễn hàng trăm buổi, tên tuổi của tác giả Phạm Lăng Quang sáng ngời, có thể ví như Vũ Dũng Minh (tác giả Đôi mắt) của Cục Quân y. Vở diễn sau này được Đoàn kịch nói Trung ương biễu diễn. Tôi được biết khi ấy đoàn trưởng Văn Thơm rất mến mộ tài năng của anh Lăng Quang và muốn xin Tổng cục đưa anh về làm tác giả của đoàn. Nhưng những người lính vận tải thì quyết giữ anh lại cho bằng được, như một sở hữu, một niềm tự hào của sân khấu...
![]() |
| Nhạc sĩ Trần Tiến và nhà biên kịch Phạm Lăng Quang |
Sau ngày thống nhất đất nước, các đội tuyên văn các binh trạm cũng như của Cục Vận tải quân sự kể như đã hoàn thành sứ mệnh. Anh Phạm Lăng Quang, một tay lái vàng của những tuyến đường Trường Sơn đạn lửa, thuyên chuyển công tác về Đoàn xe 12 Bộ Ngoại giao. Công tác mới và gánh nặng cơm áo gạo tiền của cuộc sống chung sau chiến tranh rất nhiều khó khăn, cùng một nách với vợ nuôi ba con nhỏ khiến anh chỉ tập trung vào làm ăn, công tác, xa dần với nghệ thuật anh vốn dĩ yêu thích và rất tài hoa. Nếu có lúc nào rảnh rỗi, anh chỉ sang ngồi đàm đạo với ông anh rể Quý Dương lừng danh, hay sang nhà xem tranh và uống trà tàu với nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn mà anh vốn rất ngưỡng mộ. Cũng là rất tiếc, bởi nếu như anh vẫn bền gan và say mê viết kịch như thời dưới đạn bom, hẳn sẽ có nhiều kịch bản về chiến tranh xuất sắc và thuận lợi được dàn dựng trên sân khấu bởi Nghệ sĩ nhân dân Phạm Chí Trung - Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ, cũng chính là cháu ruột của anh...
Nếu như còn, năm nay anh Phạm Lăng Quang đã tám mươi hai tuổi. Với chúng tôi, hình ảnh của anh - một người lính, nghệ sĩ đẹp trai, hào hoa, thông minh, hóm hỉnh, hào hiệp luôn in đậm trong trái tim mình. Và với chung những người lính hậu cần - kỹ thuật, các vở diễn thương hiệu Lăng Quang vẫn dậy sóng trong lòng mỗi khi nhớ lại những năm tháng lửa đạn ấy...