Những ngày này, khi gặp nhau nhiều người sẽ hỏi "Đi xem Mưa đỏ chưa?", "Lần thứ mấy rồi?" thay cho lời chào. Và nếu đã đến rạp xem bộ phim, tin chắc một điều, họ sẽ không bao giờ so sánh bộ phim với bất cứ tác phẩm đã và đang công chiếu khác.
Hiện nay, vì muốn tăng lượt view, like và comment, một số trang mạng giật tít: "Phim Mưa đỏ chuẩn bị soán ngôi phim Mai và vượt qua Lật mặt..." hay "Mưa đỏ vượt qua Mai để dẫn top đầu". Làm truyền thông sạch cần cung cấp thông tin rõ ràng: Bạn muốn đề cập đến vị trí gì? Chất lượng hay doanh thu phòng vé?
Thứ nhất, nếu so sánh doanh thu phòng vé thì cần rõ tiêu đề: Doanh thu phòng vé Mưa đỏ đã vượt hay ngang bằng tổng số doanh thu phim Mai. Vì phim Mai đã kết thúc từ lâu, là bộ phim đời sống tâm lý xã hội đơn thuần. Chiếu trong bối cảnh phim Tết mang chức năng giải trí. Khi đó, bộ phim đã gặt hái được thành công vượt xa sự mong đợi của ekip.
![]() |
| Poster phim "Mưa đỏ" - Ảnh: Đoàn làm phim |
Phim Mưa đỏ hiện vẫn đang chiếu trên tất cả các rạp. Doanh thu tăng theo giờ với 5.000 lượt suất chiếu mỗi ngày. Lượng người đến rạp xem phim vẫn chưa hạ nhiệt, phòng vé luôn cháy. Người xem lần hai, lần ba đang nhiều hơn người đi xem lần đầu... Hôm nay, khi tôi ngồi viết bài này, bộ phim đã đứng Top 1 doanh thu phòng vé Việt. Tạo nên một cơn địa chấn lịch sử về lượng người đến rạp xem phim đông nhất từ trước đến nay.
Vì thế, phim Mưa đỏ sẽ vượt xa, rất xa tất cả các phim về mọi mặt khi suất chiếu cuối cùng tại rạp kết thúc. Tôi tin, bộ phim sẽ là bom tấn trên mọi mặt trận, phá vỡ mọi kỷ lục trước đây.
Thứ hai, điều quan trọng nhất. Đừng so sánh vị trí đứng của một bộ phim lịch sử với bất cứ bộ phim nào. Chỉ cần tên phim như Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối, Biệt động Sài Gòn, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm... giờ là MƯA ĐỎ - vị trí đứng luôn đầu tiên và đặc biệt nhất ở mọi thời đại trên đất nước hình chữ S - xuất hiện cũng đồng nghĩa rằng, chất lượng là điều khỏi phải bàn.
Bộ phim Mưa đỏ thuộc thể loại lịch sử - chiến tranh - cách mạng, dựa trên tác phẩm cùng tên của nhà văn Chu Lai, tái hiện cuộc chiến tàn khốc 81 ngày đêm của quân và dân ta tại Thành cổ Quảng Trị, bên dòng sông Thạch Hãn. Một bộ phim điện ảnh lịch sử được người dân đón nhận trong không khí cả nước chào đón Lễ Kỷ niệm 80 Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Bộ phim là bản hùng ca lịch sử đẫm máu, nước mắt, mất mát, đau thương... Nhưng tràn ngập niềm tự hào về thế hệ cha ông - những chiến sĩ cách mạng đã hy sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc riêng để đất nước được Độc lập - Tự do - Hạnh phúc trọn vẹn ngày hôm nay.
Chỉ cần những điều đó, bộ phim đã đứng ở vị trí "đặc biệt" trong lòng những người con đất Việt. Đồng thời, thêm vô vàn điểm cộng khi các diễn viên thể hiện thành công từng nhân vật; từng góc quay; về sự làm việc chuyên nghiệp của đoàn phim; về ý nghĩa và thông điệp truyền tải đến người xem...
Thứ ba, sau nhiều lần đến rạp xem phim: lần một, tôi nắm được cốt truyện, các tuyến nhân vật; lần hai và ba ngấm dần từng phân đoạn, lời thoại, nội tâm từng nhân vật...
Qua bộ phim, thông điệp lớn nhất chúng ta nhận được: Khi khoác lên người bộ quân phục người lính, dù ở chiến tuyến nào, họ đều chiến đấu hết mình vì mục đích và lý tưởng đặt ra. Nhưng chính nghĩa luôn hướng về lẽ phải. Họ hy sinh sự sống, để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, để giữ hình hài đất nước được nguyên vẹn nhất, luôn là sự hy sinh ý nghĩa. Chứ không thuộc về quân xâm lược, đi đến đâu cũng gieo chết chóc đớn đau.
Cũng là người lính, Cường cùng đồng đội giữ vững Thành cổ: "K3 Tam Sơn còn - Thành cổ còn". Họ chiến đấu vì khát vọng hòa bình, vì mong ước non song thống nhất, Nam - Bắc nối liền một dải. Nhân vật Cường, Tạ, Bình, Tú... thể hiện rõ nét nhất ranh giới mong mang giữa sự sống và cái chết trên chiến trường. Để cứu Sen, Tạ đã hứng trọn làn mưa đạn. Trước khi mất, anh nhờ đồng đội gửi thư về cho gia đình. Với nội dung dự báo trước được cái chết của mình và nơi người dân chôn cất. Phải chăng, những người lính thời ấy, đều luôn sẵn sàng tâm thế chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Họ tự khắc hay nhờ đồng đội khắc sẵn tên, địa chỉ để bỏ vào lọ penicillin cho ngày mình ra đi.
Tạ còn nói "Sau này, anh em khắc tiếp ngày mất vào", rồi anh cười khà khà. Nụ cười sao mà đau nhói tim.
Hay Cường, cậu sinh viên năm ba Nhạc viện, con nhà nòi, bỏ suất du học Liên Xô, lên đường tòng quân. Anh cũng có thể quay về Bắc sau khi bị thương, hay cùng đồng đội rút quân trong đêm cuối - đêm thứ 81, để qua sông vào bờ. Hoàn thành nhiệm vụ về bên gia đình, cùng Hồng ra Bắc gặp mẹ.
Cường cùng rất nhiều đồng đội đã ra đến mép sông, đã kịp ôm người yêu. Chỉ cần sang bên kia bờ, là có thể được về với gia đình trong vòng tay mẹ; vợ, con thơ, hay người yêu...
Nhưng không! Vì sự an toàn của đồng đội khi qua sông, chỉ một câu nói "Ai còn sức ở lại..." của cấp trên, các anh sẵn sàng quay lại Thành cổ, chiến đấu giữ chân địch, giúp đồng đội rút quân an toàn. Trận chiến đêm cuối cùng, những người lính mãi mãi không trở về bằng hình hài sự sống. Nhưng họ sẽ sống mãi trong sự biết ơn của Hòa Bình.
![]() |
| Hai nhân vật Cường (bên phải) và Quang (bên trái) trong phim "Mưa đỏ" - Ảnh: Đoàn làm phim |
Quang lại là người bên kia chiến tuyến, với màu áo lính Việt Nam Cộng hòa; ra chiến trường để thỏa mãn cái tôi cá nhân, cái thú đánh đấm ngấm vào từng thớ thịt, và cảm giác chiến thắng. Sự chán ghét, khó chịu về một "lũ xôi thịt"...
Trái với những gì biết và tưởng tượng về "lính ngụy" dã man và máu lạnh, giết người không ghê tay, hãm hiếp phụ nữ ở bất cứ đâu... Quang xuất hiện hoàn toàn khác, ngay đầu phim với ánh mắt đau xót khi thấy người dân bị tàn sát; một ánh mắt ám ảnh và u buồn khi chứng kiến hiện thực chiến tranh.
Ánh mắt nhìn Hồng si mê nhưng đúng mực, không phải cách ta hay thấy trong phim khi nói về lính ngụy. Quang khá "quân tử" trong giao chiến, cũng là người trọng nghĩa, không bắn vào thương binh, giao chiến theo đúng nghĩa cân sức, cân tài bằng hành động vứt súng đánh tay đôi với Cường.
Phân đoạn Cường và Quang đánh nhau là những thước phim đáng nhớ. Chiếc khăn rằn Hồng tặng đã cứu Cường một pha đòn. Rồi cả hai đều giành giật chiếc khăn về phía mình, muốn phần thắng thuộc về mình. Chiếc khăn xoắn hình chữ S là hình ảnh của hai đầu đất nước trong cuộc giao chiến giành độc lập, non song nối liền một dải. Mũi dao của Cường chỉ cần ấn mạnh thì cuộc đời của Quang kết thúc. Nhưng không, Cường để lại mạng sống cho Quang, nhưng chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của cả hai.
Phân đoạn hai người lính ngã xuống trên mặt trận đầy khói đạn, đã tạo nên một cảm xúc dâng trào. Cường hy sinh mang thông điệp Độc lập dân tộc - Thống nhất đất nước. Quang hy sinh, một sự hy sinh vô nghĩa. Cả hai nắm chặt đầu khăn, dáng hình đất nước bị chiến tranh giằng xé gần hai mươi năm, vết cắt như sự chia cắt tại vĩ tuyến 17. Những viên sỏi trắng nổi bật trên đất, đúng vị trí các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tiếng thốt "Mẹ ơi" của Cường trước lúc hy sinh, nhói lòng bao bà mẹ Việt Nam. Người lính hy sinh tuổi đời mười chín, đôi mươi để lại sự cô đơn, nỗi buồn da diết cho Hồng và bao cô gái. Cái tuổi chỉ một nắm tay, một ánh mắt, một lời hẹn đã gieo vào lòng nhau nỗi nhớ nhung da diết. Tiếng gọi "Mình ơi" xé lòng của Hồng làm ta thổn thức. Chiến tranh là vậy, chỉ cần một ánh mắt, một lời hẹn, đã xem nhau là "vợ chồng". Tình yêu trong khói lửa chiến tranh, đau thương nghẹn lòng, nhưng đẹp và trong sáng thủy chung; Lời hẹn ước bình dị nhưng đầy bi tráng "Ngày hòa bình anh cùng em ra Bắc thăm mẹ nhé" đã nặng nghĩa tình, sâu đậm chờ mong.
Nhận vật Tạ có sức hút mãnh liệt trong phim, đúng người lính ra đi từ vùng quê Thanh Hóa, miền quê "đất rộng - người đông": văn hóa lớp 7, cộc cằn, thẳng tính nhưng rất đàn anh. Mọi hành động của Tạ đều vì đồng đội, đôi khi nó hơi lạc lõng trước anh em lính trẻ xuất thân ở mọi miền đất nước. Tạ cũng là người lính duy nhất có vợ, con; bức thư anh viết cho vợ là lời từ biệt đến xé lòng bao bà mẹ và những đứa con.
Phân đoạn Sen điên loạn khi tiếng súng vang lên, nhưng nhất định không sang sông; tái hiện hình ảnh bao người lính sau chiến tranh; sự tàn khốc của chiến tranh tích tụ trong đầu người lính cả cuộc đời còn lại: luôn cáu gắt, lầm lũi, ít nói và trở nên điên loạn. Hòa bình đã hơn năm mươi năm, nhưng các thương bệnh binh ở trạm điều dưỡng vẫn mang ký ức người lính ở chiến trường: lấy bẹ chuối làm súng, lấy chăn làm dù, lấy quần áo làm ba lô; đánh thức đồng đội dậy để lên đường hành quân. Rồi khi trái gió, trở trời, đập đầu vào tường vì những tiếng sấm rền, cơn mưa nặng hạt; hô "xung phong"... như tượng đài sống tại chiến trường khốc liệt.
Bình ngoài những trận chiến, âm thầm ngồi vẽ và khắc tên đồng đội. Tình cảm đơn phương với Hồng, mãi khi mất, mới được mọi người biết qua bức tranh anh vẽ và chiếc kẹp tóc Hồng làm rơi khi đưa bộ đội qua sông. Bình - một sinh viên năm ba Đại học Mỹ thuật Hà Nội, ngày đầu còn đeo súng ngược, khói lửa của cuộc chiến rèn cậu trưởng thành, can đảm, coi sự hy sinh nhẹ như không.
Tú chưa học hết cấp ba, nhỏ bé, vô tư, nuôi chú chim "vành khuyên"; sự hồn nhiên của anh lính trẻ mang lại sức sống lạc quan nơi chiến trận. Luôn yêu đời cho đến phút giây hòa mình vào dòng sông Thạch Hãn. Sự ra đi của Tú và Tạ làm gợi nhớ đến các anh hùng nằm mãi dưới đáy sông ngày ấy.
Tấn, người chiến sĩ duy nhất còn sống trong đoàn quân chi viện quân cho Tiểu đội 1, là người chiến sĩ trở về trong trận chiến cuối cùng. Cũng như Bình ngày đầu ra trận, Tấn như nối tiếp hình ảnh người lính đang độ tuổi cắp sách đến trường.
Hải, bị địch bắt và anh dũng hy sinh bởi sự tra tấn dã man của kẻ thù, nhưng cậu không chịu khuất phục, vẫn động viên đồng đội và gửi lời chào ly biệt. Nếu ai chưa xem kỹ sẽ không hiểu tại sao Hải lại chui vào hầm nước ngầm để bị bắt, bị tra tấn đến chết.
Xin thưa! Sự hy sinh của Hải không hề vô nghĩa, anh muốn tìm cửa ra của đường hầm, với mong muốn giúp các chiến sĩ giảm thiểu tối đa thương vong. Nhưng buồn thay, giặc đón lõng và bắt Hải. Quân thù dụ dỗ, mua chuộc, hứa hẹn, đe dọa.. Hải không hề lung lay, vì "chết thì đằng nào chẳng chết"... khoác lên mình bộ quân phục người lính, không sợ chết, họ đối mặt với kẻ thù rất hiên ngang, vẫn cười tươi và đáp trả thẳng mặt quân thù bằng cái nhổ nước bọt nói lên tất cả.
Những ngày cuối, Quảng Trị vào mùa mưa, các chiến sĩ ngủ ngồi, phải lồng cổ vào những sợi dây để tránh ngã xuống nước khi say ngủ. Dưới hào nước ngập đến đầu gối, trên đầu là máy bay gầm rú, bom đạn trút như mưa. Các chiến sĩ chia sẻ từng giọt nước, bột lương khô cầm hơi, nhưng tiếng cười vẫn ngập tràn khi tiếng súng ngừng bắn. Người lính luôn phải đối diện với đói, khát và rét. Chi tiết Tấn cắn rắn sống đã lột tả hết sự khốc liệt của cuộc chiến, cưa chân thương binh khi thuốc tê không còn. Mỗi lần địch tấn công, lực lượng bên ta lại mỏng đi. Các anh hy sinh nhưng không có chỗ chôn cất đàng hoàng, chỉ quấn tạm vào tấm dù, vùi xuống lại bị bom đạn đánh bật lên; hoặc đồng đội thả bè chuối xuôi dòng sông Thạch Hãn...
Trái ngược hoàn toàn là cảnh phim bên phía lính Việt Nam Cộng hòa. Một cuộc sống đúng nghĩa hưởng thụ: xì gà, bia, rượu...; đầy đủ về vật chất, chế tài hiện đại như xe tăng, đại bác, máy bay, ống nhòm... nhưng tinh thần thì rệu rã, vô vọng. Một bên là ẩn mình dưới hào sâu, nước ngập, chia nhau hạt muối, mảnh lương khô vụn cầm hơi, ăn rắn sống... nhưng vẫn lạc quan vui đùa khi tiếng súng ngừng bắn. Vẫn tranh nhau được khắc tên để "tao chết còn có cái gửi về cho vợ con"...
Chúng ta thấy ngay ý đồ của đạo diễn khi đưa hai hình ảnh đối lập nhau xuất hiện. Phân cảnh lính Công hòa đấu võ với cơ bắp cuồn cuộn, những chai bia vứt ngổn ngang. Nhưng trận đấu là dằn mặt nhau, không phải tinh thần đoàn kết. Ngay sau đó là cảnh Tiểu đội 1 đói, khát khi nguồn tiếp tế lương thực bị cắt đứt. Người lính khi ấy thiếu thốn trăm bề. Nhưng họ vui vẻ bên nhau, có niềm tin sẽ chiến thắng, đó là sự đoàn kết và hy sinh vì độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ tư, đừng bắt một bộ phim với thời lượng gần tầm 150 phút phải tái hiện chân thật sự khốc liệt của 81 ngày đêm tại Thành cổ. Điện ảnh là nghệ thuật, luôn có sự hư cấu, tính nhân văn và thông điệp gửi gắm trong phim như hình ảnh chiếc khăn, chú chim non...
Có ý kiến cho rằng, phim được đầu tư lớn nhưng không như kỳ vọng, đưa hình ảnh cởi trần đánh nhau để câu view; bộ phim không lột tả chi tiết, cụ thể sự khốc liệt chiến trường. Nên nhớ, đây là bộ phim điện ảnh không phải phim tư liệu lịch sử. Nó chỉ tái hiện chứ không tả thực. Nếu phim điện ảnh, diễn viên đóng nhân vật o Hồng là một cô gái quê cao tầm 1m50, gầy còm đen nhẻm; những diễn viên đóng vai lính ra trận chỉ tầm 40 cân, chưa cao nổi 1m60... chưa kể đến ngoại hình không bắt mắt đúng như những thước phim tư liệu lịch sử để lại. Bạn thấy nó còn là một bộ phim điện ảnh không? Hay phân đoạn hết thuốc tê, phải cưa chân sống, chỉ lướt qua đã làm ta đau đến thắt tim, giờ quay cận cảnh và chi tiết chắc nhiều người ngất tại rạp.
![]() |
| Hình ảnh trong phim "Mưa đỏ" - Ảnh: Đoàn làm phim |
Thực tế, nhiều bộ phim được xem là bom tấn trên thế giới vẫn mắc lỗi người ta hay gọi là "sạn"; đi xem đến lần hai, lần ba mới hiểu hết nội dung phim. Phim Việt Nam không là ngoại lệ, hãy xem phim theo đúng nghĩa với đề tài lịch sử, không xem phim tư liệu lịch sử.
Bộ phim không có nhân vật chính, mỗi nhận vật một tính cách, một mảnh ghép tạo nên bức tranh bi tráng. Cái cách bộ phim không quá chú trọng đến tên riêng của từng nhận vật cũng là một dụng ý. Chiến tranh khốc nghiệt, họ chưa kịp nhớ tên nhau đã chia xa mãi mãi. Những anh lính học sinh, những sinh viên ngồi trên ghế giảng đường lên đường ra trận khi chưa va vấp với đời. Chưa biết đeo súng đúng cách đã ra chiến trường. Bộ phim tái hiện chân thật, xúc động và bi tráng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ bên dòng sông Thạch Hãn. Trong Mưa đỏ, Tiểu đội 1 không chỉ quy tụ những người con từ ba miền đất nước, mà còn là hình ảnh thu nhỏ của cả dân tộc Việt Nam: Sĩ (nhân vật Cường, Bình, Tú, Tấn là học sinh, sinh viên) - Nông (Tạ là nông dân) và thêm một o Hồng cần mẫn chèo đò đưa bộ đội qua sông - Công (Hải là thợ điện) - Binh (Sen là đặc công)... Mỗi người một hoàn cảnh, một nghề nghiệp riêng, nhưng khi bước vào cuộc chiến, tất cả cùng hướng đến mục tiêu chung là độc lập, tự do. Chính tinh thần ấy đã trở thành sức mạnh vô song, góp phần làm nên chiến thắng kẻ thù xâm lược mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975.
Vì thế, không có bộ phim nào có thể xếp ngang hàng, phân cao thấp với những bộ phim về đề tài lịch sử, chiến tranh, sẽ không xứng tầm giá trị. Các nhà sản xuất cũng không mong muốn phim của mình bị đem ra so sánh kiểu khập khiễng kiểu này. Khi làm phim họ biết rõ phim thuộc thể loại gì, hướng tới khán giả nào.
Còn chúng ta, những khán giả công tâm và văn minh. Hãy thưởng thức nghệ thuật theo đúng nghĩa: phân biệt rõ ràng đề tài phim. Không so sánh khập khiễng; đừng cố ngồi nhặt sạn và và chê bai. Phim tái hiện lịch sử vẫn có phần hư cấu lồng vào, để ra chất nghệ thuật, giảm bớt căng thẳng, nặng nề khi xem.
Đặc biệt, khi tới rạp xem, không quay phim chụp ảnh khi phim đang chiếu. Kết phim hãy dành những tràng pháo tay như sự tri ân sâu sắc đến các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc hôm nay. Đồng thời cảm ơn đoàn làm phim đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật hào hùng về lịch sử dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX.
Tri ân xin cả một đời. Không phải trào lưu mạng xã hội ngày một, ngày hai.