Diễn đàn lý luận

Những dấu ấn của văn xuôi tự sự trong văn học Việt Nam 80 năm sau Cách mạng tháng Tám (1945-2025)

Đỗ Hải Ninh
Lý luận phê bình 06:00 | 31/08/2025
Baovannghe.vn - Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc. Bối cảnh lịch sử đó đã tạo nên bước ngoặt của văn học với những chuyển biến lớn lao.
aa

Từ đó tới nay trong hành trình 80 năm phát triển, văn học đã đồng hành cùng những chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó phải kể đến sự xuất hiện của nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự tiêu biểu đã vượt qua thử thách của thời gian, in đậm dấu ấn từng giai đoạn. Bài viết này điểm lại những tác phẩm văn xuôi tự sự có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, đóng góp vào tiến trình phát triển văn học dân tộc, trong số đó có những tác phẩm đương thời được quan tâm chú ý hoặc có ý nghĩa xã hội tại thời điểm ra đời cùng những tác phẩm đương thời chưa được đánh giá đúng mức, nhưng đến nay có thể nhận thấy rõ hơn ý nghĩa, tầm vóc.

Trong giai đoạn 1945-1975, văn học đã tham gia mạnh mẽ vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và kiến tạo quốc gia dân tộc Việt Nam. Vào thời điểm năm 1946, Chùa Đàn là tác phẩm tiếp nối mạch truyện yêu ngôn của Nguyễn Tuân từ trước Cách mạng tháng Tám với những nhân vật dị thường, yếu tố thần bí, hoang đường nhưng đã cho thấy thái độ nhập cuộc của nhà văn với đời sống cách mạng, qua việc thể hiện hình ảnh nhân vật từ bỏ con người cũ để “tái sinh ngay vào thời đại này” trong đoạn văn đề từ, phần mở đầu Dựng và phần kết Mưỡu cuối. Phong cách văn chương phóng khoáng và điêu luyện của Nguyễn Tuân kết hợp với sự thay đổi nhận thức xã hội mạnh mẽ tạo cho Chùa Đàn một dấu ấn khác biệt so với văn học trước đó. Tiếp sau Chùa Đàn, nhiều tác phẩm viết trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng tập trung khám phá sự đổi thay cuộc đời, tư tưởng, nhận thức của con người từ xã hội cũ sang giai đoạn mới. Truyện Đôi mắt của Nam Cao viết năm 1948, in trong tập truyện Đôi mắt (1954) là một tác phẩm xuất sắc thể hiện những suy tư về cuộc “nhận đường” của văn nghệ sĩ từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi nhãn quan về đời sống, về người nông dân đi theo cách mạng và kháng chiến. Bên cạnh đó, một số tác phẩm đi theo hướng miêu tả đời sống người dân trước Cách mạng tháng Tám, chẳng hạn Mười năm (Tô Hoài), xuất bản năm 1958, viết về giai đoạn mười năm trước cách mạng ở vùng ngoại ô Hà Nội hay Vợ nhặt (Kim Lân) cũng là một truyện ngắn đặc sắc viết về nạn đói năm 1945 và niềm hi vọng vào cuộc cách mạng đổi đời và tương lai tươi sáng của những người dân lao động khốn khổ.

Những dấu ấn của văn xuôi tự sự trong văn học Việt Nam 80 năm sau Cách mạng tháng Tám (1945-2025)
Từ sau khi đất nước giành được độc lập, 80 năm qua, văn học Việt Nam luôn vận động không ngừng với những tìm tòi sáng tạo bền bỉ, góp phần vào công cuộc kiến tạo quốc gia dân tộc Việt Nam. Hình ảnh minh họa. Nguồn: VNQĐ

Văn học từ 1945-1975 cũng có nhiều tác phẩm đề cập đến công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt ra vấn đề con người cá nhân trong mối quan hệ với tập thể như: Mùa lạc (Nguyễn Khải), Cái sân gạch (Đào Vũ), Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long)… Trong giai đoạn này có một số tác phẩm đi sâu khai thác số phận cá nhân như Đi bước nữa (Nguyễn Thế Phương), Vào đời (Hà Minh Tuân)… bị phê phán và bị coi là lạc lõng so với dòng chảy văn học nói chung, tuy nhiên đến nay nhìn lại có thể thấy đó là những tác phẩm thể hiện suy tư, trăn trở nghiêm túc của nhà văn trước những vấn đề của xã hội. Mùa hoa dẻ (1957) của Văn Linh là câu chuyện tình yêu vượt qua bao nhiêu khó khăn trắc trở của đôi lứa, ca ngợi tình yêu chung thủy và khát vọng hạnh phúc của con người trong nghịch cảnh chiến tranh. Đi bước nữa (1960) viết về cuộc sống ở nông thôn sau hòa bình, và cuộc đấu tranh chống lại tư tưởng bảo thủ, lạc hậu và bảo vệ quyền sống quyền hạnh phúc của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân là câu chuyện vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh để vươn lên trong hành trình vào đời của một cô gái trẻ. Những tác phẩm này khắc họa những nhân vật có thế giới nội tâm phong phú, nghệ thuật kể chuyện sinh động. Một số tác phẩm viết về đề tài công nhân được quan tâm chú ý như Vùng Mỏ của Võ Huy Tâm (giải Nhất về truyện và ký sự, Giải thưởng văn nghệ 1951-1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam). Tác phẩm viết về đời sống người thợ mỏ và quá trình giác ngộ, đấu tranh của công nhân vùng mỏ trong kháng chiến chống Pháp, tạo nên kiểu nhân vật tiêu biểu của văn học trong thời đại mới: nhân vật đại diện cho giai cấp công nhân. Mở hầm của Nguyễn Dậu (1961) là sự tiếp nối đề tài công nhân và lao động sản xuất xây dựng cuộc sống mới ở vùng mỏ được đánh giá là tác phẩm chạm đến vấn đề của con người cá nhân trong một công cuộc xây dựng xã hội mới.

Trong hai cuộc kháng chiến, văn xuôi viết về chiến tranh luôn chiếm số lượng lớn, bao quát những sự kiện lịch sử lớn của đất nước, từ kháng chiến chống Pháp: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Cao điểm cuối cùng (Hữu Mai), Phá vây (Phù Thăng)… đến kháng chiến chống Mỹ: Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Mẫn và tôi (Phan Tứ)... Tình yêu quê hương đất nước được biểu hiện qua những câu chuyện rất giản dị như câu chuyện của ông Hai trong Làng (Kim Lân, viết năm 1947, đăng trên báo Văn nghệ năm 1948, in trong tập Con chó xấu xí, 1962). Trong suốt ba mươi năm chiến tranh, các tác phẩm văn xuôi đã làm nổi bật lòng yêu nước, tự hào dân tộc qua những tác phẩm khám phá chiều sâu văn hóa và vẻ đẹp riêng của mỗi vùng miền: Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc) là bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên, Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi) trở về với miền sông nước Nam bộ hoang sơ và những con người phương Nam chân chất, mộc mạc thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Miền Tây (Tô Hoài) tìm hiểu đời sống của người Mông ở miền núi phía Bắc trong quá trình đấu tranh xây dựng làng bản, Sông Đà (Nguyễn Tuân) bằng ngôn ngữ phóng khoáng của thể loại tùy bút đã khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và văn hóa, lối sống của đồng bào dân tộc thiểu số… Viết về chiến tranh và công cuộc xây dựng đất nước, văn xuôi cũng đã tạo nhiều dấu ấn bởi những bộ tiểu thuyết đồ sộ mang âm hưởng sử thi: Cửa biển (Nguyên Hồng, gồm 4 tập: Sóng gầm - 1961, Cơn bão đã đến - 1967, Thời kỳ đen tối - 1973, Khi đứa con ra đời - 1976), Bão biển (Chu Văn, 2 tập), Vùng trời (3 tập: tập I: 1971, tập II: 1974, tập III: 1980), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi, 2 tập: tập 1: 1962, tập 2: 1970…). Do văn học giai đoạn này tập trung vào đề tài chiến tranh, đáp ứng tính thời sự, tính chiến đấu nên tiểu thuyết lịch sử có phần khá mờ nhạt, tuy nhiên vẫn có một số cây bút bền bỉ với loại hình này. Có thể kể đến Bóng nước hồ Gươm (Chu Thiên), Tổ quốc kêu gọi (Hà Ân). Sự hiện diện của các tác phẩm này cho thấy tiểu thuyết lịch sử như một dòng chảy ngầm lặng lẽ, xuyên suốt, không hề đứt quãng so với sự phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn Đổi mới.

Các thể tài ký khá phát triển trong văn học giai đoạn 1954-1975 và có nhiều tác phẩm đặc sắc ở các loại hình khác nhau như: Một lần tới thủ đô, (Trần Đăng), Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng), Anh bộ đội (Trần Độ), Họ sống và chiến đấu (Nguyễn Khải), Cửu Long cuộn sóng (tập bút ký, Trần Hiếu Minh)… Các loại hình ký đa dạng như ký sự, truyện ký, tùy bút cho thấy khả năng nhạy bén và thích ứng của thể loại này. Các tác phẩm ký với đặc trưng thể loại đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại đảm bảo cung cấp thông tin trung thực, giàu tính thời sự, bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của người viết.

Bên cạnh đó, văn học đô thị miền Nam trong bối cảnh đất nước chia cắt vẫn tiếp tục hành trình hiện đại hóa với sự giao lưu rộng rãi với văn hóa, văn học phương Tây. Văn học miền Nam có sự đóng góp của nhiều tác giả tâm huyết với văn hóa truyền thống với các tác phẩm đặc sắc như: Đò dọc (Bình Nguyên Lộc), Bút máu (Vũ Hạnh), Hương rừng Cà Mau (Sơn Nam), Thương nhớ mười hai (Vũ Bằng)… Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam là hai tác giả chuyên viết về đời sống văn hóa phương Nam bằng ngôn ngữ thuần Nam bộ với khối lượng tác phẩm đồ sộ. Trong Bút máu, Vũ Hạnh gửi gắm tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ với nhân dân qua các sáng tác đậm chất truyền thống còn ở Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng thể hiện tình yêu Hà Nội, yêu văn hóa Việt qua những món quà, hương vị, màu sắc của từng mùa trên đất Bắc.

Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất, văn học từng bước có những thay đổi trong cách thể hiện đời sống. Trong thập niên 80 của thế kỷ XX, văn học vẫn duy trì xu hướng sử thi, ca ngợi người anh hùng với vẻ đẹp lý tưởng nhưng cũng đã manh nha xuất hiện các yếu tố của xu hướng văn học khác qua một số tác phẩm giàu suy tư về hậu quả chiến tranh, chiêm nghiệm về nỗi đau và số phận con người trong chiến tranh như Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Thời gian của người (Nguyễn Khải)... Trong khoảng mười năm hậu chiến, mảng văn xuôi sản xuất cũng trở lại sôi động với các tác phẩm giàu tính thời sự của Nguyễn Mạnh Tuấn như Cù lao Tràm, Đứng trước biển, hay tiểu thuyết chống tiêu cực của Ma Văn Kháng (Mưa mùa hạ), Nguyễn Thị Ngọc Tú (Hạt mùa sau).

Sự nở rộ của truyện ngắn thời kỳ Đổi mới đã kéo công chúng trở lại với văn chương, họ quan tâm đón đọc báo Văn nghệ, hầu hết các tờ tuần báo của các lĩnh vực khác nhau đều dành đất cho việc đăng truyện ngắn. Trong xu hướng Đổi mới, truyện ngắn đạt được những thành tựu lớn với nhiều tác phẩm xuất sắc như Cỏ lau, Bến quê, Phiên chợ Giát… - Nguyễn Minh Châu; Tướng về hưu, bộ ba truyện Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết - Nguyễn Huy Thiệp; Hai người trở lại trung đoàn - Thái Bá Lợi; Bi kịch nhỏ, Đồng đô la vĩ đại - Lê Minh Khuê; Gió dại - Bảo Ninh; Mùi cọp - Quý Thể; Con thú bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu; Đùa của tạo hóa - Phạm Hoa; Bước qua lời nguyền - Tạ Duy Anh; Người sót lại của Rừng Cười - Võ Thị Hảo; Bức thư gửi mẹ Âu Cơ - Y Ban; Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ; Con chó và vụ ly hôn - Dạ Ngân; Hai người đàn bà xóm Trại, Mùa hoa cải bên sông - Nguyễn Quang Thiều; Vũ điệu của cái bô - Nguyễn Quang Thân; Người ở bến sông Châu - Sương Nguyệt Minh; Bến trần gian - Lưu Sơn Minh; Mảnh vườn xưa hoang vắng - Đỗ Chu; Tiếng thở dài qua rừng kim tước - Hồ Anh Thái; Trăng nơi đáy giếng - Trần Thùy Mai; Khi người ta trẻ - Phan Thị Vàng Anh; Bóng đè - Đỗ Hoàng Diệu; Đàn sẻ ri bay ngang rừng - Võ Thị Xuân Hà; Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tư… Truyện ngắn phong phú về chủ đề và bút pháp nghệ thuật với lực lượng sáng tác đông đảo, trong đó có sự trỗi dậy của các cây bút nữ giới. Sự xuất hiện của hàng loạt các cây bút nữ trong văn học thời kỳ Đổi mới như Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Lý Lan, Y Ban, Đoàn Lê... cho thấy một bước chuyển mới của nền văn học những phong cách đa dạng và có nhiều tác phẩm nổi bật. Khởi đầu từ truyện ngắn, các cây bút nữ dần lấn sân sang địa hạt tiểu thuyết và tạo nên dấu ấn rất riêng: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là một tiểu thuyết lịch sử đặc sắc, có cái nhìn đối thoại, cách diễn giải và bút pháp nghệ thuật táo bạo về lịch sử và con người trong quá khứ; Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Tiền định (Đoàn Lê) từ trải nghiệm thân phận đàn bà gợi nên những vấn đề mới cho tiểu thuyết tự thuật; Tiểu thuyết đàn bà (Lý Lan), Xuân từ chiều (Y Ban) đều là những cái nhìn khác nhau về phụ nữ và vấn đề nữ quyền.

Bên cạnh truyện ngắn, tiểu thuyết vẫn giữ vững vai trò là thể loại lớn của văn học ở từng chặng đường. Tiểu thuyết gây được sự quan tâm chú ý của công chúng là những tác phẩm hướng tới nhận thức về cái tôi cá nhân trong đoàn thể: Thời xa vắng (Lê Lựu), Người và xe chạy dưới ánh trăng (Hồ Anh Thái), Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Ly thân (Trần Mạnh Hảo), Miền hoang tưởng (Đào Nguyễn), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập). Đặc biệt với Thiên sứ, Phạm Thị Hoài thể hiện quan niệm về văn chương mới mẻ: tiểu thuyết như một trò chơi. Năm 1991, cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Nỗi buồn chiến tranh là tác phẩm xuất sắc của tiểu thuyết chiến tranh, kết tinh những giá trị của văn học đổi mới: viết về chiến tranh và hậu chiến bằng cảm hứng phi sử thi, nghệ thuật dòng ý thức, kỳ ảo, kết cấu đa tầng, khám phá cái vô thức. Bên cạnh đó, có một kiểu tiểu thuyết phản tỉnh và thức tỉnh về con người, về những tín điều và những lầm lạc như Đi về nơi hoang dã (Nhật Tuấn). Trong tác phẩm này, con người bị đẩy vào tình thế thê thảm, thực hiện nhiệm vụ quan trọng theo lệnh của cấp trên mở đường lên đỉnh Hua Ca không có thực/ trong tưởng tượng, hành trình kiếm tìm giữa núi rừng hoang dã khiến con người dần hiện ra một cách trần trụi. Viết về chiến tranh và hậu chiến, Chim én bay là một tiểu thuyết đặc biệt cảm nhận thấm thía và sâu sắc nỗi đau và mất mát của con người hậu chiến, đặc biệt là người phụ nữ với những trớ trêu ngang trái của số phận, những cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh. Một số tiểu thuyết khác xuất bản vào năm 1990-1991 đều thể hiện sự phản tư rất rõ: Ác mộng (Ngô Ngọc Bội), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Đại tá không biết đùa (Lê Lựu), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), cùng với đó, sự xuất hiện của Nguyễn Bình Phương với các tiểu thuyết Bả giời, Vào cõi, như cánh chim lạ báo hiệu sự chuyển hướng tiểu thuyết trong một chặng đường mới.

Các cây bút tiểu thuyết đi xa nhất trong thể nghiệm nghệ thuật đã đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ: Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Gió lửa, Trăng nguyên sơ (Nam Dao), Chinatown, Paris 11 tháng 8, T. mất tích (Thuận), Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam). Những tìm tòi nghệ thuật này tiếp tục được hiện diện trong các cây bút văn xuôi như Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Vũ Đình Giang, Uông Triều, sau nữa là Đinh Phương, Huỳnh Trọng Khang, Nhật Phi… Phong Điệp với BloggerGa ký ức, Vũ Đình Giang với Song Song, Bờ xám, Nguyễn Ngọc Tư với Sông, Biên sử nước, Đỗ Hoàng Diệu với Lam Vỹ, Uông Triều với Tưởng tượng và dấu vết… đã cho thấy những chuyển động đa chiều của tiểu thuyết Việt Nam trong một không gian văn hóa cởi mở.

Tiểu thuyết có yếu tố tự truyện là một khuynh hướng thành công với những “chuyện đời tự kể” giàu trải nghiệm cá nhân và có giá trị nghệ thuật như Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Tiền định (Đoàn Lê)… Trong đời sống văn học nổi lên xu hướng tiểu thuyết lịch sử như một xu thế phát triển đáng chú ý của tiểu thuyết đương đại: Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Minh sư (Thái Bá Lợi)... Bên cạnh đó dòng tiểu thuyết viết về những giai đoạn lịch sử bão táp như cải cách ruộng đất bằng cái nhìn phản tỉnh cũng khá sôi nổi với các tác phẩm: Cuồng phong, Ba người khác, Đội gạo lên chùa, Dòng sông mía, Chuyện làng Cuội, Thời của thánh thần, Biết đâu địa ngục thiên đường...

Trong mỗi bước chuyển đổi của thời đại, thể ký luôn là thể loại cất tiếng nói mạnh mẽ. Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh - Vũ Kì Lân) ghi lại những sự kiện chiến tranh khốc liệt ở mảnh đất Vĩnh Linh Quảng Trị. Đến giữa thập niên 80, trước thềm đổi mới, ký và phóng sự lại có cơ hội trỗi dậy để phản ánh kịp thời những sự kiện nóng bỏng trong xã hội: Cái đêm hôm ấy hôm gì (Phùng Gia Lộc), Người đàn bà quỳ, Chuyện ông vua lốp (Trần Huy Quang)… Ở giai đoạn đầu thế kỷ XXI, tản văn, tạp văn trở thành thể loại đáng chú ý bởi gắn với sự thật và cách thể hiện quan điểm, cảm xúc cá nhân với sự nở rộ các tác phẩm: Nhân trường hợp chị thỏ bông (Thảo Hảo), Yêu người ngóng núi (Nguyễn Ngọc Tư), Con giai phố cổ (Nguyễn Việt Hà), Ký ức vụn, Bạn văn (Nguyễn Quang Lập), Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm (Y Phương), Bây giờ mà có về quê (Huỳnh Như Phương), Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách (Nguyễn Vĩnh Nguyên), Cuộc đời vui quá không buồn được (Trần Nhã Thụy), Xe máy tiếu ngạo, Hà Nội bảo thế là thường (Nguyễn Trương Quý), Trên căn gác áp mái (Đỗ Bích Thúy)… Tự truyện và hồi ký cũng là những thể loại gây nhiều tranh luận, các tác phẩm lưu lại được dấu ấn trong lòng người đọc như Cát bụi chân ai, Chiều chiều (Tô Hoài), Nhớ lại (Đào Xuân Quý), Viết về bè bạn, Một thời để mất (Bùi Ngọc Tấn), Năm tháng nhọc nhằn năm tháng thớ thương (Ma Văn Kháng), Cô bé nhìn mưa (Đặng Thị Hạnh), Bất hạnh là một tài sản (Phan Việt), Lê Vân yêu và sống (Lê Vân - Trần Mai Hạnh ghi)… Tự truyện và hồi ký gây được sự chú ý của người đọc bởi nhu cầu quan tâm đến con người cá nhân, khát khao đi tìm sự thật và trở về bản ngã của con người hiện đại. Làn sóng tản văn, tạp văn trỗi dậy cũng cho thấy tác động của cuộc cách mạng công nghệ thông tin, sự xuất hiện của internet và mạng xã hội đã hình thành thói quen đọc, đối thoại, tương tác của độc giả với người viết thông qua những loại hình tự sự ngắn và có tính trực tiếp này.

Từ sau khi đất nước giành được độc lập, 80 năm qua, văn học Việt Nam luôn vận động không ngừng với những tìm tòi sáng tạo bền bỉ, góp phần vào công cuộc kiến tạo quốc gia dân tộc Việt Nam. Văn xuôi qua các chặng đường đã tiếp nối quá trình hiện đại hóa văn học, theo sát hiện thực cuộc sống và nỗ lực đóng góp vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như vào tiến trình đổi mới, hội nhập quốc tế. Những tác phẩm mà chúng tôi điểm lại ở trên có thể chưa đầy đủ, bao quát hết sự phong phú, đa dạng của văn học Việt Nam 80 năm qua nhưng đã phần nào thể hiện chân thực và sinh động đời sống vật chất và tinh thần con người Việt Nam, đồng thời góp phần hoàn thiện vẻ đẹp ngôn ngữ dân tộc và những gì làm nên hồn cốt của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn