Diễn đàn lý luận

Văn học Việt Nam trong kỉ nguyên toàn cầu hóa

Đoàn Ánh Dương
Lý luận phê bình 07:53 | 17/09/2025
Baovannghe.vn - Trong truyện ngắn Đôi mắt được sáng tác từ năm 1948, dường như ở khởi đầu của một nền văn học mới ở một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nam Cao đã tin rằng tới năm 2000, đời sống đất nước sẽ khác hẳn, khiến cho người ta phải rùng mình ớn lạnh khi nghe/kể về nạn đói khủng khiếp năm 1945.
aa

Trên thực tế, cho tới lúc này, sau nửa thế kỷ từ ngày Nam Cao hình dung mong mỏi, đất nước đã thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Công cuộc Đổi Mới do Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) đã đem đến những thành tựu rõ rệt trên nhiều mặt, đặc biệt là kinh tế. Trên đà thắng lợi ấy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 (2001), phân tích những cơ hội và thách thức mà quá trình toàn cầu hóa đem lại, văn kiện Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” Trên tinh thần định hướng đó, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Năm năm sau, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10 (2006), bên cạnh việc “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, văn kiện Đảng còn đưa thêm yêu cầu “đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Từ thành công ấy, tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 (2011), Đảng và Nhà nước xác định quá trình hội nhập thế giới từ đây phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện, chủ động, tích cực trên mọi lĩnh vực. Không chỉ chú trọng vào kinh tế, giờ đây, “hội nhập quốc tế” trở thành định hướng chính trị mới, thay thế cho chủ trương “hội nhập kinh tế quốc tế” được Đảng và Nhà nước đưa ra từ đầu công cuộc Đổi Mới và đặc biệt nhấn mạnh từ đầu thế kỷ XXI. Quán triệt định hướng này, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế, theo đó quá trình hội nhập quốc tế phải được thực hiện một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực cơ bản, từ kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, cho tới văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác. Văn học nghệ thuật vốn là lĩnh vực sớm có giao lưu quốc tế rộng mở từ trong cao trào Đổi Mới 1986-1989 và thời kỳ hội nhập quốc tế những năm 1990 càng có thêm cơ hội để hòa nhập vào nền văn học thế giới diễn ra gắn kết và sôi động cùng với sự trỗi dậy của quá trình toàn cầu hóa.

Bước vào ngôi làng toàn cầu từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI

Thử nghiệm từ năm 1991 nhưng phải đến tháng 11/1997, Việt Nam mới chính thức được hòa mạng internet toàn cầu. Đây là cột mốc quan trọng giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập với thế giới từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Internet đã thay đổi thói quen tiếp cận thông tin của người Việt Nam. Internet cùng với mạng xã hội hình thành sau đó, đã trở thành phương tiện thông tin chủ yếu, chiếm chỗ và làm suy yếu các phương tiện truyền thanh, truyền hình, nhất là báo giấy. Ngày 12/6/2018, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật An ninh mạng. Điều này cho thấy internet đã trở thành một thực thể rõ rệt trong đời sống xã hội Việt Nam, là cơ sở nền tảng cho chủ trương thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chương trình chuyển đổi số quốc gia từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Với lĩnh vực văn học nghệ thuật, sự phổ biến của internet đã tác động mạnh mẽ tới diện mạo và tính chất nền văn học nghệ thuật Việt Nam ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI.

Trước nhất, nhờ internet, hoạt động giao lưu văn hóa văn học nghệ thuật được diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Với internet, văn nghệ sĩ trí thức và công chúng được tiếp cận tức thời với thông tin văn học nghệ thuật diễn ra trên toàn cầu, không còn có độ trễ như trước. Nó khiến cho đời sống văn học Việt Nam tương thông với đời sống văn học toàn cầu. Thêm nữa, từ đầu thế kỷ XXI, trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, hàng loạt công ty văn hóa và truyền thông tư nhân ra đời và tích cực hoạt động. Một mặt, các công ty này thúc đẩy đời sống văn học nghệ thuật trong nước, và mặt khác, trở thành cầu nối chuyển dịch văn học nghệ thuật nước ngoài. Năm 2004, Việt Nam gia nhập Công ước Berne về bảo vệ tác quyền văn học nghệ thuật càng khiến cho hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật đi vào quy củ, thể hiện sự tôn trọng quyền lợi của tác giả, minh bạch và đáp ứng chuẩn mực luật pháp quốc tế trong kinh doanh và chuyển giao văn hóa văn học nghệ thuật.

Thứ hai, việc kết nối vào mạng lưới internet toàn cầu giúp mở rộng biên giới văn học Việt Nam. Nhờ internet, văn học tiếng Việt và văn học của người Việt ở trong nước và nước ngoài được gắn kết. Nhờ vào hạ tầng kỹ thuật phát triển ở các nước Âu Mỹ, ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI, văn nghệ sĩ trí thức gốc Việt đã sớm thành lập các trang web, từ thông tin dư luận tới các trang web chuyên biệt về văn hóa văn nghệ. Văn nghệ sĩ trí thức và bạn đọc phổ thông ở trong nước truy cập vào các trang web này không chỉ có thêm thông tin, hiểu biết về đời sống văn học nghệ thuật của người Việt ở nước ngoài mà thông qua việc tiếp nhận tác phẩm và các thông tin văn hóa văn nghệ được đăng tải mà có thêm sự cảm thông, chia sẻ với văn nghệ sĩ trí thức và bạn đọc người Việt ở nước ngoài, trước nhất ở nỗ lực giữ gìn và sáng tạo bằng tiếng Việt, làm giàu có tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt. Việc trao đổi thông tin cũng giúp cho văn nghệ sĩ trí thức người Việt ở nước ngoài giới thiệu văn học Việt Nam ở trong nước tới cộng đồng người Việt tha hương, giúp họ thông qua văn học để thông hiểu về quê nhà sau những tháng năm bị gián cách về không gian và định kiến ý thức hệ. Vậy là, nhờ sự phổ biến của internet, thông qua giao lưu văn hóa văn học, cộng đồng người Việt năm châu bốn biển xích lại gần nhau hơn, từ đó thúc đẩy nỗ lực hòa hợp, hòa giải dân tộc.

Chuyển đổi số còn mở rộng sự kết nối từ chiều đồng đại sang lịch đại, từ việc xóa bỏ các khoảng cách không gian tới xích gần các khoảng cách thời gian. Việc số hóa di sản văn hóa văn nghệ và sự ra đời các nguồn tài nguyên số làm nên một cuộc cách mạng trong việc tiếp cập và tìm hiểu quá khứ dân tộc. Chính việc dễ dàng tiếp cận với di sản dân tộc đã giúp cho văn nghệ sĩ trí thức và độc giả có thêm hiểu biết từ đó xây dựng ý thức về quốc gia dân tộc, về khoan dung văn hóa, để giữ gìn và phát huy bản sắc trong hội nhập và toàn cầu hóa.

Thứ ba, sự phổ biến của internet ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI cũng sinh thành một loại hình văn học mới: văn học mạng. Ở Việt Nam, văn học mạng được hình thành từ hai bộ phận: văn học với tính chất và thi pháp truyền thống được lưu hành và phổ biến trên không gian mạng và văn học có “thuộc tính mạng”, tức thay đổi tính chất và thi pháp truyền thống do sự tác động của kỹ thuật số, của cách thức phổ biến, lưu truyền và tương tác giữa nhà văn - văn bản - người đọc. Chịu tác động mạnh mẽ từ sự phát triển của văn học mạng trên thế giới, nhất là văn học mạng ở Trung Quốc, văn học mạng ở Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ XXI, có diện mạo, đặc trưng và đời sống sáng tạo cũng như tiếp nhận đặc thù. Cho đến nay, đây vẫn là bộ phận văn học chưa được nghiên cứu tìm hiểu tương xứng với sự hiện diện đa dạng và phong phú của nó trên không gian mạng nói riêng và trong cả sự tương tác của nó với không gian văn học truyền thống.

Không gian văn học mới gắn kết toàn cầu không chỉ làm nảy sinh những vấn đề mới của đời sống văn học cũng như làm nảy sinh loại hình văn học mới mà còn tác động mạnh mẽ tới loại hình văn học truyền thống. Hai diễn ngôn chính được định hình từ những năm 1990, là chủ nghĩa dân tộc với khuynh hướng văn hóa lịch sử và chủ nghĩa quốc tế với khuynh hướng đổi mới kỹ thuật (tự sự) theo mẫu hình phương Tây hiện đại, càng được quá trình toàn cầu hóa tạo thêm những cơ hội để phát triển. Điểm đáng chú ý ở đây là, chính hoàn cảnh đặc biệt được tạo lập bởi không gian hậu thuộc địa và thời gian hậu hiện đại đã khiến cho hai khuynh hướng tưởng như ngược chiều nhau này song song vận động và phát triển. Rõ ràng, càng hội nhập quốc tế sâu rộng - tức là tham dự sâu sắc hơn với thế giới tư bản phương Tây hiện đại từng là đối thủ ý thức hệ - thì phức cảm hậu thuộc địa càng khiến cho bên cạnh việc hào hứng tham chiếu các khuynh hướng, trào lưu và thể nghiệm nghệ thuật mới lạ để làm mới văn học nghệ thuật Việt Nam, các văn nghệ sĩ trí thức cũng chú tâm tìm về di sản cha ông vừa như một cách thức tăng cường niềm tự hào tự tôn dân tộc vừa như hệ quả của xu thế chính trị vị bản sắc trong toàn cầu hóa. Sự sinh thành của một thế hệ các nhà văn trẻ vào đầu thế kỷ XXI với những quan tâm về cá nhân, cá tính, vừa không trực tiếp nếm trải quá khứ chiến tranh vừa tích cực trải nghiệm giao lưu văn hóa toàn cầu, tuy vậy cũng không hoàn toàn thoát khỏi bóng đổ của diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa trong văn học nghệ thuật. Tất cả điều này khiến cho, trong tâm tính văn nghệ sĩ trí thức Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, lý trí thì hướng về toàn cầu nhưng tình cảm lại hướng về dân tộc, làm nên sự ngập ngừng lưỡng lự bởi những trở kháng, những lựa chọn nước đôi của chủ thể hậu thuộc địa khi bước vào ngôi làng toàn cầu. Chính điều này làm cho, ngay khi tình hình chính trị xã hội thế giới thay đổi theo hướng chống lại quá trình toàn cầu hóa hay sự trỗi dậy của chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, thì văn nghệ sĩ trí thức lại nhanh chóng trở lại với mối quan tâm chính, là sự tồn vong và sức sống của đất nước, vốn làm thành diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa như một dòng chính trong văn học nghệ thuật Việt Nam từ ngày đất nước hòa bình thống nhất.

Văn học Việt Nam trong kỉ nguyên toàn cầu hóa
Văn học nghệ thuật vốn là lĩnh vực sớm có giao lưu quốc tế rộng mở từ trong cao trào Đổi Mới 1986-1989 và thời kỳ hội nhập quốc tế. Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet

Định vị bản sắc trong thế giới toàn cầu hóa

Từ giữa thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, trên phạm vi toàn cầu, xu hướng toàn cầu hóa bị thách thức bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân tộc. Thứ nữa, đến từ sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc nước lớn cạnh tranh vị thế siêu cường với nước Mỹ, đòi hỏi thay đổi trật tự thế giới. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt này khác hẳn với “những mảng tối của toàn cầu hóa” mà trước đây các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đều nhận ra và tìm cách khắc phục, điều chỉnh và dấn bước mạnh mẽ hơn vào quá trình này.

Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và người lính, văn học đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam đương đại. Tình hình chính trị - xã hội của đất nước cùng những sự kiện khích lệ tinh thần dân tộc đã tác động mạnh mẽ tới nhà văn, thúc đẩy họ lựa chọn sáng tạo ở những chủ đề có tính thách thức như các cuộc chiến tranh nơi biên giới hay các quan điểm biểu thị các yêu sách chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ. Khởi đầu bằng các tự sự hư cấu, như một chiến lược diễn ngôn cần thiết bảo đảm cho sự xuất hiện và phổ biến các vùng hiện thực còn khuất lấp, nhạy cảm, dễ động chạm, như các cuộc chiến tranh biên giới cùng các hệ lụy của nó. Sau đó, khi những vùng hiện thực này đã được làm quen, là sự trỗi dậy của các tự sự phi hư cấu, trong hình hài các ghi chép, bút ký, truyện ký “người thật việc thật” cung cấp thêm tính đích thực của hiện thực được thể hiện. Con đường này ngược lại với cách thức tiếp cận của văn học ngay khi sự kiện xảy ra, khi mà lúc ấy, tự sự phi hư cấu được ra đời trước, thể hiện vai trò “trực chiến”, nắm bắt và thể hiện tính nóng hổi của sự kiện, sau đó mới là các tự sự phi hư cấu như là cách thức người trong cuộc và nhà văn nghiền ngẫm sâu hơn về nguyên nhân, bản chất và hệ lụy của những hành động chấn động ấy. Nhìn từ “chủ nghĩa đề tài”, có thể nhận thấy chiến tranh biên giới phía Bắc, nhất là chiến tranh biên giới Tây Nam, đã là một chủ đề được nhiều tác giả lựa chọn khi sáng tác từ chất liệu chiến tranh. Với đề tài biên giới Tây Nam, có thể kể đến Dòng sông Xônét của Nguyễn Trí Huân, Đường vào Phnôm Pênh của Bùi Cát Vũ, Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy, Biên giới, Bên rừng thốt nốt của Nguyễn Quốc Trung, Khoảng rừng có những ngôi sao của Văn Lê, Dòng sông nước mắt của Thanh Giang, Mùa xa nhà của Nguyễn Thành Nhân, Những câu thơ ngoái lại của Lương Hữu Quang, Bên dòng sông mê của Bùi Thanh Minh, Sương đẫm lá khộp khô của Ngân Vịnh… Cùng với nhiều truyện ngắn (chẳng hạn, được tuyển in trong 2 tập Truyện ngắn Tây Nam, 2004). Chỉ có điều, đề tài chiến tranh biên giới khi này chỉ được nhìn nhận như một đề tài văn học đơn thuần, chưa bị quy chiếu bởi không gian đậm màu dân tộc chủ nghĩa như sau 2014.

Sau sự xuất hiện của Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, chỉ trong vài năm, đã có thêm nhiều tác phẩm viết về chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc được xuất bản: Hoang tâm, Xác phàm của Nguyễn Đình Tú, Miền hoang của Sương Nguyệt Minh… Cùng và sau đó, là các tác phẩm phi hư cấu: Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, Lính Hà của Nguyễn Ngọc Tiến, Chuyện lính Tây Nam của Trung Sỹ, Về từ hành tinh ký ức của Võ Diệu Thanh, Rừng khộp mùa thay lá của Nguyễn Vũ Điền, Đất K của Bùi Quang Lâm, Hồi ức chiến tranh Vị Xuyên của Nguyễn Đức Huy, Tiếng vọng đèo Khau Chỉa của Nguyễn Thái Long… Sự nổi lên của các tự sự phi hư cấu ở Việt Nam về chủ đề chủ quyền cho thấy sự tham dự tích cực của văn học vào các vấn đề dân tộc. Trong một bối cảnh mà nhận thức về văn học còn khá sơ giản ở đông đảo người đọc, thì hư cấu (truyện ngắn, tiểu thuyết) được sử dụng để tự sự lịch sử không đáp ứng được nhu cầu tìm biết của người đọc về tính đích thực của hiện thực được thể hiện. Bản thân những người viết văn, chủ yếu là không chuyên, lại tìm thấy trong những tự sự phi hư cấu này những cách thức gần gũi để kể lại một cách trung thực câu chuyện và hiện thực đã qua, đã nếm trải. Sự trung thực của người viết, sự khách quan của các hiện thực lịch sử, cả hai khi hợp lại, càng tạo nên sự gần gũi, đồng cảm, chia sẻ và thấu hiểu từ người đọc. Ở không gian như thế, khi mà kinh doanh văn hóa không chỉ nắm bắt được thị hiếu công chúng mà còn rất tinh nhạy trong các dự đoán thời tiết chính trị, các công ty tư nhân hay các nhà xuất bản đã nhanh chóng ủng hộ cho một trào lưu văn học khớp nối với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc. Tất nhiên, ở một bộ phận độc giả trung lập hay ở chiều sâu tư duy văn học, việc tìm đến với các tự sự phi hư cấu về các vấn đề dân tộc có thể phát xuất sâu hơn từ nền tảng tâm lý dân tộc, ở khía cạnh họ bị thôi thúc bởi những quy chiếu của đạo đức và trách nhiệm “phía sau phẩm hạnh” tạo nên sự cố kết cộng đồng mà họ thuộc về. Hoặc giản dị hơn, nhưng không vì thế mà ít quan trọng hơn, chịu sự tác động của việc văn học dịch kiến tạo hạng mục trong đa hệ thống văn hóa và văn học Việt Nam đương đại. Gần 20 năm đầu thế kỷ XXI, văn học Việt Nam đã chuyển dịch hai tác giả quan trọng đều dành sự chú ý tới các tự sự về cộng đồng dân tộc và đều được ghi nhận bằng giải thưởng Nobel uy tín: Imre Kertész, nhà văn Hungary gốc Do Thái giành Nobel văn học 2002 với các tác phẩm về đề tài diệt chủng và holocaust dựa trên những trải nghiệm đời tư; Svetlana Alexievich, nhà văn Belarus viết tiếng Nga giành Nobel văn học 2015, với các ghi chép lấy cảm hứng và chất liệu từ hiện thực do bà quan sát, điều tra.

Viết về chiến tranh, nhất là các cuộc chiến biên giới ít được nhắc tới, chỉ là một dòng chảy của nền văn học Việt Nam 80 năm sau ngày lập nước. Tuy vậy, sự hô ứng và cách thức mà các bên liên quan tìm cách kết nối bộ phận văn học này với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, lại là một ứng xử, một chiến lược, định hình diện mạo và xu hướng phát triển của văn học Việt Nam. Nó là sự tiếp nối và làm nổi bật tiến trình văn học Việt Nam đương đại mà ở đó khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa đang dần thắng thế. Trong bối cảnh gia tăng không khí dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam, văn học bị cuốn vào, và chính văn học cũng góp phần kiến tạo, một mẫu hình chủ nghĩa dân tộc như thế ở Việt Nam đương đại. Đó vừa là hệ quả của sự biến đổi trong đời sống chính trị trên thế giới và ở trong nước, vừa là cách thức mà qua đó, văn học nghệ thuật góp phần định vị bản sắc Việt Nam trong thế giới ngày càng chia rẽ từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn