Vào năm 1991, tôi có chuyến công tác cùng nhạc sĩ Trần Hoàn và một số cán bộ của Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và Du lịch vào Quảng Bình. Theo thói quen, bao giờ đi công tác, nhạc sĩ cũng đem theo một cây đàn Ghi ta. Hai thư ký của anh, Tô Long và Việt Hiển, đều là những giọng ca hay, đàn giỏi, là những người hòa thanh ăn ý của anh trong các buổi sinh hoạt nghệ thuật với quần chúng địa phương.
Khi tới thăm Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Bình, anh Trần Hoàn được tặng một tập thơ của nhà thơ Xuân Hoàng. Là chỗ thân tình với nhạc sĩ Trần Hoàn, nên Nhà thơ Xuân Hoàng ngỏ ý nhờ anh chọn, phổ nhạc một bài thơ trong tập này. Trưa hôm đó, anh Trần Hoàn dành giờ nghỉ để đọc tập thơ. Buổi chiều, tới nhà Xuân Hoàng, anh Trần Hoàn nheo mắt cười hóm hỉnh: “Tập thơ này của ông giống Nghị quyết Đảng ủy quá, mình không phổ nhạc được”. Nhà thơ Xuân Hoàng cười hồn hậu: “À, đợt này đang trong phong trào Chào mừng đại hội mà. Không phổ nhạc thì cầm đọc cho vui vậy”. Căn phòng của hai vợ chồng nhà thơ Xuân Hoàng nho nhỏ, chúng tôi chia nhau người ngồi ghế, kẻ ngồi giường. Chợt, anh Trần Hoàn cầm tờ báo Quảng Bình nằm ở góc giường lên đọc lướt, rồi đọc chăm chú tới mức quên nói chuyện với mọi người. Anh Xuân Hoàng kéo anh Trần Hoàn ra khỏi cơn say đọc: “Này, uống nước đi chứ!”. Anh Trần Hoàn giật mình, giơ tờ báo lên: “Thơ để phổ nhạc đây rồi. Bài này hay quá”. Thì ra, trong tờ báo bị xé mất một nửa ấy, có bài thơ Chỉ còn anh và em của chị Bình, vợ anh Xuân Hoàng, với bút danh Thu Tịnh.
Nhạc sĩ Trần Hoàn (1928-2003) và bà Thanh Hồng thời trẻ |
Tối hôm ấy, tại nhà khách của huyện Tuyên Hóa, tôi nghe văng vẳng tiếng ghi ta trong phòng anh Trần Hoàn, mãi tới khuya vẫn bập bà bập bùng. Tôi biết, cũng tại Tuyên Hóa này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã sáng tác ca khúc Về Đồng Lê, đậm đà chất dân ca Trung bộ, nghe mượt mà, trữ tình đến nao lòng. Sớm tinh sương, anh Trần Hoàn đã gõ cửa phòng tôi, khua: “Dậy, dậy các cậu. Nghe bài hát mới của mình phổ thơ bà Bình, vợ ông Xuân Hoàng đây!”. Trong không khí tĩnh lặng của buổi sớm miền sơn cước, tiếng ghi ta sâu lắng và giọng hát ấm áp của anh Trần Hoàn nhè nhẹ trải ra. Ôi, một ca khúc trữ tình tuyệt vời. Chỉ còn anh và em, mặc dù được sáng tác bởi một phụ nữ miền Trung, trong môi trường miền Trung, nhưng khi thành ca khúc, lại không mang âm hưởng dân ca Trung bộ, mà mang tính chất một bản trữ tình bán cổ điển, với giai điệu thắm thiết, sang trọng, nói lên tình cảm chân thành, giản dị của đôi vợ chồng tuy đã qua thì xuân sắc vẫn tin tưởng.
Đợi chờ và dâng hiến, đó là hai chủ đề mà âm nhạc cần làm bật lên được. Nhạc sĩ Trần Hoàn đã viết phần này dàn trải, mênh mang, tới đoạn cuối lắng đọng ở âm chủ, chuẩn bị cho sự chuyển sắc thái. Đúng như vậy, lời thơ và âm nhạc ở phần hai tươi sáng lên, dồn dập, quấn quýt bởi các nốt móc đơn, móc kép nối tiếp nhau, xen vào là những nốt luyến, rồi cao dần lên, thể hiện tình cảm thắm thiết, niềm tin mãnh liệt vào mùa xuân – biểu tượng của hạnh phúc. Dù phản ánh một hiện thực là cùng với năm tháng, sự trẻ trung, tươi xanh cũng sẽ phải lùi vào quá khứ, nhưng đồng thời nói lên niềm tin và nghị lực của con người - biết tin yêu, dâng hiến, luôn luôn “thắp lửa” cho cuộc đời! Bởi vậy, cái giá lạnh, u hoài của mùa đông sẽ bị xua tan, cái nồng ấm, vui tươi của mùa xuân sẽ dâng tràn cuộc sống…
Sau này, khi đi công tác Thái Lan về, Bộ trưởng Trần Hoàn bảo với tôi rằng bên Thái Lan mời đoàn nghệ thuật của ta sang, nhưng ông Bộ trưởng Văn hóa bên đó dặn đi dặn lại rằng tiêu chuẩn đầu tiên phải là những diễn viên trẻ đẹp. Ít lâu sau, đoàn nghệ thuật của Việt Nam sang biểu diễn tại Thái Lan, có Nghệ sĩ Nhân dân Lê Dung – không phải là một diễn viên trẻ đẹp, mà là người có giọng hát hay nhất nước ta hồi đó. Rồi, bài thơ của chị Bình – tức Thu Tịnh - do Trần Hoàn phổ nhạc Chỉ còn anh và em được Lê Dung hát vang giữa thủ đô Băng Cốc, làm rung động biết bao trái tim của khán giả Thái Lan.
Là một cán bộ lãnh đạo gắn bó với phong trào của quần chúng, anh Trần Hoàn rất chịu khó đi cơ sở. Đi với anh, tới đâu tôi cũng thấy anh có những người quen thân, trong đó có những anh chị cán bộ, nhân viên yêu văn nghệ. Có buổi tối trăng sáng, đoàn lên thuyền qua sông Nhật Lệ sang Bảo Ninh, quê của Mẹ Suốt, mấy anh em ngồi bệt trên bãi cát cùng bà con dân làng hát vui. Anh Trần Hoàn ôm ghi ta, vừa đàn vừa hát hoặc đệm cho mọi người hát, tới thâu đêm vẫn chưa muốn dừng. Trong nhiều buổi sinh hoạt văn nghệ, các cô cậu văn nghệ quần chúng hát ca khúc của anh, nhạc sĩ Trần Hoàn chăm chú lắng nghe. Hết buổi văn nghệ, khi anh chị em vây quanh, anh Trần Hoàn lại nheo mắt cười hóm hỉnh: “Các cô cậu làm cho ca khúc của mình có nhiều anh em quá!” Biết là nhạc sĩ nhắc khéo mình hát bài của anh mà sai nhạc chỗ này chỗ kia, các cô cậu không tự ái, mà cười vang, thân thiết.
Trong một số chuyến đi công tác địa phương, anh Trần Hoàn còn đưa một số ca sĩ cùng đi để phục vụ quần chúng. Là Bộ trưởng, nhưng anh không làm oai, xa cách, ngược lại rất xuề xòa, gần gũi. Có chuyến đi, gần tới nơi thì trời về trưa, không muốn làm phiền cơ sở phải cơm bưng nước rót, anh Trần Hoàn rủ bọn tôi ghé vào quán dùng bữa. Anh chỉ cần có mấy củ khoai lang luộc, quả chuối tiêu và cốc nước chè xanh là xong bữa. Hồi đó, Bộ trưởng cũng nghèo, chứ không giàu nứt đố đổ vách như một số vị bây giờ, đi công tác được địa phương biếu chút quà quê, là quý lắm, anh Trần Hoàn bảo chia đều cho nhau. Riêng phần mấy con mực khô, anh không nhận, anh nói: “Vợ chồng mình răng yếu, không nhai được!”. (Sau này, vào năm 2003, khi đang trong chuyến công tác miền Nam, anh Trần Hoàn bị nhồi máu cơ tim, phải cấp cứu, bác sĩ chỉ định đặt Stent ở động mạch vành. Chi phí cho cuộc phẫu thuật là 100 triệu đồng, cả nhà anh chạy đôn chạy đáo mãi không đủ, sau đó, do chỉ phải đặt 2 Stent chứ không phải là 3 cái như dự báo, và được Nhà nước hỗ trợ một phần, mới đủ tiền chữa bệnh).
Ham hoạt động, anh Trần Hoàn làm việc phục vụ văn hóa nghệ thuật cho tới ngày từ biệt cõi trần. Từ đó, người vợ thân thương của anh, chị Thanh Hồng, làm nốt những phần việc của anh. Chị cặm cụi lục lọi các tài liệu của anh để tìm lại những bản nhạc mà anh đã viết. Chị bảo, viết xong, có khi anh Hoàn không nhớ là mình đã để đâu. Nhiều khi, lục trong tập tài liệu này, trong cuốn sổ kia, chị lại bắt gặp một bài hát anh viết, có bài đã hoàn chỉnh, có bài đang dở dang. Chị thường đưa cho anh Việt Hiển chép lại sạch sẽ và chuyển cho ca sĩ hát. Còn bây giờ, chị đã tập hợp được tới gần 800 bài hát của anh, toàn là nguyên gốc chép tay, rồi phân loại, xếp vào từng tập, ghi danh mục cẩn thận. Tôi đọc danh mục mà sửng sốt: Tình ca: 174 bài. Địa phương ca: 230, Ngành ca: 82, Bác, Đảng ca: 23, Xuân ca: 25, Thiếu nhi ca: 30 bài… Chị Hồng đã chọn lọc, cho xuất bản một tập ca khúc của anh (khác với các tập đã xuất bản) với tiêu đề Lời ru cho anh gồm 125 ca khúc. Trong số ca khúc được sưu tầm, phân loại này, tôi để ý thấy, chủ đề về Trường Sa đã sớm được anh Trần Hoàn quan tâm, và anh đã viết một ca khúc phổ thơ của một chiến sĩ Trường Sa là Trần Dực, với tiêu đề Gửi trường Sa. Các bản nhạc cùng nhiều tài liệu quý về nhạc sĩ Trần Hoàn đã được chị Thanh Hồng trao gửi Cục Văn thư - Lưu trữ Nhà nước.
Phạm Việt Long
Nguồn Văn nghệ số 51/2023