Diễn đàn lý luận

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Vương Trọng
Lý luận phê bình 07:57 | 05/12/2025
Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
aa

Về ngôn ngữ, xứ Nghệ có đặc điểm khá đặc biệt so với các vùng khác của nước ta. Ở các vùng khác, chỉ dân tộc thiểu số mới có ngôn ngữ riêng, còn ở xứ Nghệ, dẫu là dân tộc Kinh nhưng ngoài tiếng phổ thông vẫn có tiếng nói riêng trong giao tiếp hàng ngày. Thứ tiếng này phong phú đến nỗi có thể dịch thơ ca tiếng phổ thông như một ví dụ quen thuộc: Đâu núi, đâu non, đâu chẳng thấy/ Đâu sông, đâu biển, thấy đâu nào thành: Mô rú, mô ri, mô nỏ chộ/ Mô rào, mô bể, chộ mô mồ!

Tiếng địa phương xứ Nghệ, theo tôi, có hai loại. Loại một chiếm phần lớn, đó là những từ chỉ sử dụng ở xứ Nghệ, mà không hoặc rất ít sử dụng ở các địa phương khác, cũng như không có trong tiếng phổ thông. Loại hai là những từ trước kia tiếng phổ thông đã từng sử dụng, nhưng hiện nay không sử dụng nữa, mà chỉ còn tồn tại ở xứ Nghệ. Loại từ Nghệ này có thể gọi là từ cổ của tiếng Việt.

Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Du quê ở Hà Tĩnh, nhưng có mẹ quê Bắc Ninh, sinh ra, lớn lên, học hành ở Thăng Long và vùng phụ cận, nên quen thuộc ngôn ngữ phổ thông. Tuy vậy, Nguyễn Du là người biết tiếng Nghệ, không đợi sáu năm ở ẩn tại Hồng Lĩnh từ năm 1796 đến 1802, không đợi 18 năm làm quan dưới thời Gia Long khi vợ con vẫn ở quê Nghệ, mà ngay khi còn nhỏ thì trong nhà đã có nhiều người nói tiếng Nghệ như bố Nguyễn Nghiễm, anh trai Nguyễn Khản, và đặc biệt bà Đặng Thị Dương, vợ cả của bố, quê Nghi Xuân, chăm sóc, dạy dỗ ông (có tài liệu lại nói rằng bà Dương mất trước khi ông Nguyễn Nghiễm ra Thăng Long?). Nguyễn Du biết tiếng Nghệ là một điều chắc chắn, nhưng biết đến mức độ nào, và có hay sử dụng hay không thì chúng ta khó xác định, ngoài việc xét xem trong các tác phẩm chữ Nôm ông đã sử dụng tiếng Nghệ như thế nào. Có người hùng hồn tuyên bố: Nguyễn Du là nhà thơ vĩ đại của dân tộc, nên khi sáng tác thơ chữ Nôm, ông chỉ dùng tiếng phổ thông mà thôi! Có người lại nói ngược lại: Ông dùng rất nhiều tiếng Nghệ! Tôi thấy cả hai ý kiến trên đều cực đoan và không chính xác. Nguyễn Du sáng tác thơ Nôm bằng ngôn ngữ phổ thông, họa hoằn lắm mới sử dụng một vài từ địa phương xứ Nghệ. Trước hết ta khảo sát trong Truyện Kiều:

1-NGHỈ

Cứ mỗi lần nghĩ đến tiếng Nghệ trong Truyện Kiều là tôi nhớ lời của ông Đinh Văn Niêm (cháu ngoại sáu đời của cụ Nguyễn Du, đại tá phi công, nhà nghiên cứu lịch sử, mê thơ và đặc biệt mê Truyện Kiều) nói với nhóm Hiệu đính Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam năm 2015: “Các ông muốn hiệu đính thế nào thì hiệu đính, nhưng nếu giở sách ra, thấy câu thứ 12 ghi “Gia tư NGHỈ (dấu hỏi) cũng thường thường bậc trung” thì tôi không thèm đọc cả quyển!” Đinh Văn Niêm là người Nghi Lộc, quê Nghệ, nên có cách nói cực đoan rất Nghệ, nhưng với tôi, nội dung câu nói ấy rất đúng. Trong Truyện Kiều, từ nào là NGHỈ (dấu hỏi), từ nào là NGHĨ (dấu ngã) là nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi làm đau đầu nhiều người, không chỉ là bạn đọc bình thường. Người ta kể rằng, cách đây trên 50 năm, một Hội đồng hiệu đính Truyện Kiều gồm các nhà nghiên cứu tên tuổi, kết quả bỏ phiếu cho từ này là 4/3 cho NGHỈ/ NGHĨ, và kết quả xuất bản lần đó là “Gia tư NGHỈ (dấu hỏi) cũng thường thường bậc trung”, quyển sách đã làm Đinh Văn Niêm bực tức.

Nguyễn Du và tiếng Nghệ
Bìa cuốn Truyện Kiều

Muốn phiên âm đúng một chữ từ bản Nôm sang Quốc ngữ của Truyện Kiều, theo tôi, cần ba điều kiện: Một: thông thạo chữ Nôm. Hai: phân biệt ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường. Ba: ngoài ý nghĩa của từ đó ra, còn phải chú ý cách sử dụng từ đó như thế nào trong thực tế, nhất là đối với một từ chỉ dùng với một cộng đồng nào đó. Với chữ Nôm, chữ NGHỈ và chữ NGHĨ viết như nhau, muốn phiên âm ra từ nào do sự hiểu biết của người phiên âm. Từ NGHỈ tiếng Nghệ, là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít. Cách dùng: chỉ loại người đáng ghét, gần giống với chữ “hắn” tiếng phổ thông. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ dùng từ này hai lần, để chỉ Mã Giám Sinh ở câu 894: Mé ngoài NGHỈ đã giục liền ruổi xe” và chỉ Sở Khanh ở câu 1188: “Dơ tuồng NGHỈ mới kiếm đường tháo lui”. Chúng ta lưu ý rằng, các nhân vật như Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Vương Quan… xuất hiện rất nhiều trong truyện, ở một đoạn dài rất cần thay đổi đại từ nhân xưng để tránh trùng lặp, nhưng Nguyễn Du không bao giờ dùng chữ NGHỈ với họ, thì không lý gì với Vương Viên ngoại đáng kính, tác giả Truyện Kiều lại dùng chữ NGHỈ đáng ghét kia. Vậy nên câu 11,12 trong Truyện Kiều là: Có nhà viên ngoại họ Vương/ Gia tư NGHĨ cũng thường thường bậc trung thì chữ thứ ba câu bát không phải chữ NGHỈ tiếng địa phương xứ Nghệ mà là chữ NGHĨ tiếng phổ thông hết sức quen thuộc. Chữ “nghĩ cũng” ở đây hoàn toàn chính xác với “gia tư”, vì không phải nhìn là thấy ngay, mà phải suy nghĩ, xem xét, so sánh… mới biết được vào loại “bậc trung” trong xã hội. Chữ NGHỈ Nguyễn Du không dùng khi nói về Vương Ông, mà cũng không dùng để chỉ “kẻ lại già” họ Chung, nên câu 609-610: Thấy nàng hiếu trọng tình thâm/ Vì nàng, nghĩ cũng thương thầm xót vay mới chính xác.

2-RẬP

Câu thứ 586: Này ai đan (dậm, dập, rập) giật giàm bỗng dưng.

Chữ thứ ba của câu thơ này có nhiều dị bản. Nhiều nhất là dùng chữ dậm, chỉ một dụng cụ đan bằng tre khá phổ biến ở các tỉnh Bắc Bộ để đánh bắt các loại cá nhỏ, tôm tép. Bản của Đào Duy Anh thì phiên âm thành dập, và giải thích là một dụng cụ đặt dưới nước để sập cá. Bản Liễu Văn Đường 1871, thì in “Này ai đan rập giật giàm bỗng dưng” với chữ rập in nghiêng, ngụ ý rằng, cứ theo chữ Nôm ấy thì đọc là rập là đúng, nhưng không hiểu nghĩa. Nhiều nhà thành thạo chữ Nôm cũng thừa nhận rằng, chữ ấy đọc là rập là chuẩn nhất. Bây giờ ta tìm nghĩa của từ này. Ở vùng Nghệ Tĩnh, ngày xưa và cả ngày nay có một dụng cụ để đánh chim, đánh dơi rất phổ biến làm bằng hai cây nứa dài, phía giữa căng lưới rồi chăng ra trên đường chim hoặc dơi bay qua, người sử dụng hai tay cầm hai cây nứa thường trực chờ đợi. Khi chim, hoặc dơi vướng vào lưới thì hai tay nhanh chóng rập hai cây nứa sát lại với nhau để chim, dơi không có đường lui. Cụ Nguyễn Du nhiều năm sống ở Hồng Lĩnh, thì chắc chắn không xa lạ gì với dụng cụ bắt chim, bắt dơi này. Chính vì động tác rập hai cây nứa lại với nhau mà dụng cụ này được gọi là cái rập. Trở lại hai câu thơ trên Điều đâu bay buộc ai làm/ Này ai đan rập, giật giàm bỗng dưng thì rập là thứ đánh lừa bằng lưới, giàm là thứ đánh lừa bằng bẫy, rất phù hợp để chỉ ra cái thứ thằng bán tơ đã bày ra để hại người, lừa Vương Ông, Vương Quan mà trong Kim Vân Kiều truyện có nhắc tới.

Có người bảo rằng ở Bắc Bộ cũng có cái rập để đánh cá, đó là một loại vó nhỏ, không phải dùng để kéo cá, mà để úp cá. Tôi nghĩ rằng, hiểu chữ rập trong câu Kiều kia theo nghĩa này thì cũng được, nhưng cái hay giảm đi, vì rập kiểu này là dùng vũ lực để úp bắt (tương tự như úp nơm), chứ không mang tính chất đánh lừa để tương xứng với “giật giàm” chỉ đúng thủ đoạn của tay bán tơ kia.

3-RẠO

Câu 867-868 theo như hầu hết các bản Kiều Quốc ngữ xuất bản từ đầu thế kỷ 20 đến nay là:

Lầu mai vừa rúc còi sương

Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi

Thế nhưng trong tất cả các bản Nôm chúng ta có được đến ngày nay, không có một bản nào có hai chữ “giục giã” quen thuộc và rất dễ hiểu này cả. Thế thì hai chữ đó là gì? Theo bản Liễu Văn Đường 1871 thì phiên âm hai chữ đó thành “giục rạo”, với chữ rạo in nghiêng, ý nói rằng cứ theo chữ Nôm mà phiên âm thì là như thế, nhưng không hiểu chữ ấy có nghĩa thế nào. Cũng có bản phiên âm thành “giục dạo”, coi dạo như một từ đệm bổ nghĩa cho “giục”. Ta biết rằng, nhiều người Bắc hay nhầm lẫn phụ âm R với phụ âm D, nên lý giải được cách phiên âm đó.

Ở quê tôi từ Rạo được dùng phổ biến để chỉ chuyện làm ồn ào, gây khó chịu cho người khác. Thầy giáo thấy học sinh mất trật tự, liền bảo: “Lớp học đâu phải là cái chợ, mà các em mần rạo lên thế?” Một người đi xem diễn tuồng về, người nhà hỏi có hay không, thì trả lời: “Người xem mần rạo, có nghe được chi mô!” Mà đâu phải chỉ một vùng quê Đô Lương bé nhỏ của tôi. Trong dịp lễ kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du, tôi đi nói về Truyện Kiều mấy chục buổi, và đến vùng quê nào trên xứ Nghệ, tôi cũng đem chữ rạo này ra để “trưng cầu ý kiến”. Và thật mừng thay, chữ Rạo này, theo nghĩa ấy đã dùng phổ biến không những trên toàn cõi xứ Nghệ, mà còn lan một ít sang Quảng Bình…! Vậy nên, hai câu lục bát trên phải viết thành: Lầu mai vừa rúc còi sương/ Mã sinh giục rạo vội vàng ra đi với chữ rạo tiếng Nghệ, có nghĩa như tôi đã giới thiệu. Thế thì hai chữ “giục giã” quen thuộc từ đâu mà ra? Nghe nói rằng, hai chữ này lần đầu xuất hiện trong bản Kiều của Kiều Oánh Mậu, xuất bản năm 1902. Kiều Oánh Mậu là người có công quảng bá Truyện Kiều rất lớn, chính bản Kiều của ông đã có ảnh hưởng nhiều đến các bản Kiều Quốc ngữ xuất bản về sau do những người khác hiệu đinh. Nhưng Kiều Oánh Mậu cũng “có tội” khi tự động sửa chữa một số từ trong nguyên bản mà theo ông là làm cho hợp lý hơn, khi ông thấy bản gốc vô lý hoặc không rõ ràng! Và thú thật, tôi thấy có chỗ ông sửa cũng rất hợp lý, vừa rõ nghĩa, vừa hay hơn(1)!

4-ÁY

Nguyễn Du và tiếng Nghệ
Chân dung nàng Kiều

Câu thứ 97-98:

Một vùng cỏ áy bóng tà

Gió hiu hiu thổi một và bông lau

Xứ Nghệ nhiều đồi núi, có những thửa ruộng nông dân canh tác sát chân núi, lấy nước chảy ra từ khe suối để cấy lúa. Loại ruộng đó được gọi là “ruộng khe”. Bình thường, nước ruộng khe rất trong. Nhưng rồi bỗng một hôm, người nông dân đi thăm ruộng, thấy toàn mặt nước trên ruộng nổi một lớp màng mỏng màu vàng nhạt. Họ thốt lên: “Ruộng bị nước áy rồi, phải mua vôi về bón thôi!” Như vậy, nước áy là thứ nước sinh ra cái màng màu vàng ấy, hay nói gọn lại là thứ nước màu vàng nhạt (chắc là thừa a xít?). Chân núi Hồng Lĩnh quê hương cụ Nguyễn Du chắc chắn có nhiều “ruộng khe”, và chắc nông dân không xa lạ gì với màu vàng nước ấy. Khi chiều tà, tia nắng nhạt do mặt trời chiếu xuống làm cho cỏ ngả vàng nhạt như màu vàng thứ nước áy kia, nên thi hào đã nghĩ ra ba chữ “áy bóng tà” thật cô đúc và mới mẻ. Phải chăng chính tác giả Truyện Kiều là người đầu tiên đưa chữ ÁY vào văn chương mà ngôn ngữ xuất phát từ quê hương cụ?

5-NHE

Câu 319-320:

Bực mây dón bước ngọn tường

Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe

Tuy nhiên có một số dị bản như “thang mây” thay cho “bực mây” và “chẳng sai” thay cho “chẳng nhe”, nhưng hầu hết các bản Kiều đều ghi “chẳng nhe”. Ai đọc câu Kiều này cũng hiểu rằng, khi Kim Trọng leo lên để nhìn qua tường thì thấy cô gái ở vườn bên kia đúng là cô Kiều mà chàng đã gặp hôm nọ trong tiết thanh minh. Vấn đề ở đây là hai chữ “chẳng nhe” cuối câu có nghĩa là gì? Khi cùng một số nhà Kiều học của Hội Kiều học làm công tác hiệu đính Truyện Kiều để xuất bản năm 2015, tôi hỏi một nhà Kiều học quê Bắc Bộ hai chữ “chẳng nhe” cuối câu có nghĩa là gì, thì được trả lời rằng chúng chỉ là tiếng đệm, vì nội dung câu thì phần trên đã nói trọn vẹn rồi! Là một người Nghệ, tôi không nghĩ như thế. Người Bắc dùng động từ NGẮM khi bắn súng, bắn nỏ… thì người Nghệ gọi là NHE. “Có NHE chính xác thì bắn mới trúng được”. Chữ NHE cũng không chỉ có nghĩa đen chỉ động từ ngắm cụ thể, mà nó còn có nghĩa rộng là ngắm nghía, cân nhắc, suy xét. Một vị bác sĩ ở Hà Tĩnh kể với tôi rằng, khi mua cam, ông đã chọn được mười quả, đứng dậy, có vẻ suy nghĩ trước khi trả tiền, thì bà bán hàng nói: “Mười trấy chú chọn là to nhất rồi, còn nhắm với nhe gì nữa!” Qua ví dụ, này, ta hiểu được hai chữ “chẳng nhe” Nguyễn Du dùng để nhấn mạnh thêm ý khẳng định người bên vườn kia rõ ràng là người hôm nọ đã gặp, không cần phải cân nhắc, suy xét gì nữa! Như vậy, NHE là một tiếng Nghệ, đã được Thi hào sử dụng trong Truyện Kiều.

6-IM

Câu 289-290:

Cách tường phải buổi êm trời

Dưới đào dường có bóng người thướt tha

Chữ thứ năm của câu lục hầu hết các bản Kiều Quốc ngữ đều phiên âm là êm. Kể ra êm trời” cũng có nghĩa, nó ngược với “động trời” mà dân ta hay dùng để chỉ ngày trở trời, như có thể sắp mưa. Như vậy, “êm trời” có nghĩa gần giống như “đẹp trời”. Nhưng chữ Nôm xưa nay được phiên âm thành chữ “êm” đó, cũng có thể phiên âm thành chữ IM. Đối với người Bắc, chữ “im trời” khá xa lạ, nhưng người Nghệ dùng hàng ngày. “Im trời” có nghĩa trời không nắng. Người Bắc gọi bóng râm, người Nghệ bảo bóng im, trong im. Trời im thường do mây che hoặc vì sương mù. Cảnh này trong Truyện Kiều là do sương mù. Vì sương mù nên Kim Trọng không nhìn rõ cảnh vườn bên kia, “Dưới đào dường có bóng người thướt tha”, hai chữ “dường có” nói lên điều đó. Cảnh sương mù này cũng đã được chính Nguyễn Du xác định ở đoạn sau: Tan sương đã thấy bóng người/ Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ, tức là trước đấy trong vườn đã có sương, nên phải đợi khi sương tan, chàng Kim mới thấy rõ Thúy Kiều được. Như thế cảnh đầu buổi sáng đó là sương mù, tức là “im trời” hoặc “trời im” theo cách nói của người xứ Nghệ. Vậy nên, ngoài êm trời như xưa nay ta từng hiểu, cặp lục bát này rất có thể:

Cách tường phải buổi IM trời

Dưới đào dường có bóng người thướt tha

Với chữ IM trời tiếng Nghệ chỉ trời sương mù, không nắng!

7-Ả

Câu 15. Đầu lòng hai ả tố nga.

Câu 406: Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này.

Câu 672: Lại thua ả Lý bán mình hay sao?

Câu 927: Bên thì mấy ả mày ngài.

Câu 1151: Bày vai có ả Mã Kiều.

Câu 1636: Liều như cung Quảng ả

Hằng nghĩ nao.

Tổng cộng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng sáu lần chữ Ả, một từ quen thuộc của người xứ Nghệ từ xưa và cả ngày nay. Hiện tại thì các tỉnh khác, tôi không thấy ai dùng chữ Ả để chỉ người đàn bà, người chị… nhưng không biết ngày xưa, ngoài xứ Nghệ ra, có nơi đâu sử dụng nữa không, vì cũng rất có thể đó là một từ cổ của tiếng Việt, mà nay chỉ còn vùng Nghệ Tĩnh sử dụng?

Như vậy, trong toàn bộ 3254 câu Kiều, tác giả chỉ sử dụng một số từ tiếng Nghệ tính chưa đủ trên đầu mười ngón tay, cụ thể là tám từ (hoặc xấp xỉ thế, vì có một vài từ còn gây tranh cãi tôi không đưa vào đây), chiếm một tỷ lệ vô cùng ít ỏi khi so với tiếng phổ thông.

Trong Thác lời trai Phường Nón, tác giả cũng chỉ dùng mấy từ tiếng Nghệ chỉ chuyện làm nón, cùng từ “quệt” tiếng Nghệ, theo nghĩa “têm” trầu trong tiếng phổ thông. Trong Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du không dùng một từ tiếng Nghệ nào, qua đấy đủ thấy thi hào hết sức cân nhắc khi sử dụng ngôn ngữ địa phương trong tác phẩm chữ Nôm của mình.

Còn Văn tế sống hai o gái Trường Lưu thì sao? Tôi đã có bài phân tích chứng minh tác giả bài này không phải đại thi hào Nguyễn Du, với đầu đề Nguyễn Du không như thế được nhiều đồng nghiệp đồng tình, tôi sẽ có dịp gửi tới quý vị.

.......................................

(1): Câu 3017-3018: “Huyên già dưới gối gieo mình/ Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi”, Nguyễn Du dùng thủ pháp đảo ngữ quá mạnh, làm nhiều bạn đọc không hiểu được ý muốn diễn tả là Thúy Kiều gieo mình dưới gối mẹ (huyên già), nên Kiều Oánh Mậu đã chỉnh lại “Gieo mình dưới gối huyên đình/ Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi” vừa rõ nghĩa, vừa tránh được lặp vần.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.
Tôi nhặt tôi lên - Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh

Tôi nhặt tôi lên - Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh

Baovannghe.vn- Một chiếc lá rơi trật mùa/ ai nhặt dùm tôi