Diễn đàn lý luận

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh

Đặng Thị Thái Hà
Lý luận phê bình 14:46 | 24/10/2025
Nếu như Han từng nói trong lời nói đầu của cuốn Xã hội kiệt quệ rằng ông mong muốn việc “xem xét, suy tư về sự mệt mỏi” có thể đưa đến một hứa hẹn “chữa lành” nào đó, thơ Nguyễn Tiến Thanh cũng đem đến cho ta những khoảng lặng của suy tưởng, những chốn “nghỉ chân” của bay bổng mộng mơ (những gì có lẽ dễ bị chỉ trích phê phán nhất hiện thời, vì không “năng suất”) để phần nào bớt bị cuốn theo một cách không chút phản tư vào vòng xoáy của sự tự vắt kiệt thể xác và tâm hồn của chính mình, và cuối cùng, vươn đến một sự tự do đích thực.
aa

Lời mở

Trong tiểu luận Xã hội kiệt quệ (Müdigkeitsgesellschaft/ The Burnout Society, xuất bản lần đầu năm 2010) - một cuốn sách ghi dấu sự hiện hiện của Byung-Chul Han trong tư cách một triết gia “có thể lật nhào những cấu trúc nâng đỡ sự tồn tại hằng ngày của chúng ta”[1] và buộc người đọc phải đối diện với trạng thái hiện tồn đáng buồn mà chính mình đang rơi vào trong thời đại này - tác giả đã mở đầu bằng việc khái quát lại tiến trình lịch sử nhân loại từ góc nhìn bệnh học: “Mỗi thời đại đều có những căn bệnh đặc trưng của nó. Đã từng có một thời đại có thể được coi là thời đại của vi khuẩn, để rồi cuối cùng khép lại bằng việc tìm ra thuốc kháng sinh. Dù bây giờ vẫn có thể có những nỗi sợ hãi lan nhanh trước sự tấn công của một đại dịch cúm, nhưng nhờ công nghệ miễn dịch, chúng ta đã vượt qua nó. Chúng ta không còn sống trong đời đại của virus nữa”[2]. Và để bắt bệnh cho những con người của thế kỷ 21 này, Han cho rằng để chọn một loại bệnh đặc trưng mà chúng ta đang phải đối mặt hôm nay, thì đó là những chứng bệnh về tinh thần và tâm lý: “Về mặt bệnh lý, thế kỷ 21, ngay trong giai đoạn vắt mình của nó, đã không còn được quyết định bởi vi khuẩn hay virus, mà bởi các tế bào thần kinh. Các bệnh lý thần kinh như trầm cảm, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), rối loạn nhân cách ranh giới (BPD) và hội chứng kiệt sức đã đánh dấu bối cảnh bệnh lý của những năm đầu thế kỷ 21. Không còn là nhiễm trùng, mà là nhồi máu; không phải xuất phát từ tính chất tiêu cực của những thứ dị ngoại xa lạ về mặt miễn dịch, mà là sự tích cực dư thừa” (tr.1).

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh

Có lẽ đúng nhưng Byung-Chul nhận ra, chưa bao giờ như bây giờ, chúng ta không ngừng được khuyến khích phải “sống mãnh liệt”, “hết mình”[3], phải liên tục vượt lên trên bản thân, tự “tối ưu hoá”[4] bản thân để càng ngày càng khẳng định được chính mình qua việc thu nhặt được tối đa thành tích. Han định danh những con người đang trong đời sống kinh tế tân tự do đương đại ngày nay, những người đang “tự vắt kiệt năng lượng của chính mình” trong một ảo tưởng rằng mình đang phát triển và hoàn thiện bản thân, rằng mình đang làm chủ đời mình, đang gặt hái thành tựu cho chính mình là những “chủ thể thành tích mang tính ái kỉ” (narcissistic achievement-subjects). Sự tồn tại của một cá nhân bây giờ, giá trị của mỗi chúng ta, dường như chỉ còn được thể hiện qua và bị quy giản vào chỉ số KPI. Toàn bộ con người, tất cả những chiều kích phong phú đa diện của chúng ta, thậm chí cả những vùng nội tâm vốn bí ẩn thẳm sâu, tất cả dường như đều đang bị giản lược và cắt bỏ, để thông qua một bảng đánh giá duy nhất là KPI (thậm chí ngay cả trong những ngành mang tính phản biện xã hội hơn cả như các ngành khoa học nhân văn, chỉ số này cũng đang thống trị). Nhân phẩm, trách nhiệm, giá trị bản thân, mọi thứ bị rút giảm qua một kênh thước đo duy nhất là hiệu quả lao động. Người ta được trọng vọng, tôn vinh hay miệt thị coi thường, giờ đây chỉ phụ thuộc vào thứ chỉ số vô hồn về công việc và thành tích ấy. Những kẻ khớp được vào hệ thống ấy là những kẻ có được thành tựu (hay “chủ thể thành tích” theo cách nói của Byung-Chul), những kẻ không theo kịp (hoặc vô ý bị lệch khỏi) khung chuẩn ấy sẽ bị kì thị, đồng thời sẽ tự “nội hoá” những đánh giá thấp kém hổ thẹn về bản thân, và vì thế sẽ càng dễ rơi vào tuyệt vọng bế tắc. Cả xã hội này, dưới con mắt Byung-Chul Han, như đang lên đồng trong cơn sốt của việc phải lao động “tích cực”, và những chứng bệnh tâm lý nghiêm trọng thời đại này ra đời từ nguồn cơn của sự “tăng động” được kích thích không ngừng nghỉ ấy. Nhưng điều đáng nói hơn cả là Byung-Chul Han nhận ra rằng, sự tích cực và tăng động này, việc chúng ta đang tự cho rằng mình đang chỉ cố gắng vì mình để đem lại thành tựu cho mình, để khiến đời mình có ý nghĩa này, thực chất, chỉ là lớp vỏ đang che đậy đi một cơ chế bóc lột tinh vi hơn - một cơ chế bóc lột khiến cho chủ thể bị bóc lột ảo tưởng rằng mình hoàn toàn tự do và tự quyết: “Hệ thống nỗ lực để tăng năng suất, và vì thế nó chuyển đổi từ bóc lột người khác sang bóc lột bản thân, bởi vì việc này tạo ra hiệu quả và năng suất cao hơn, tất cả đều diễn ra dưới vỏ bọc của tự do”[5]. Và: “Chủ thể thành tích mang tính ái kỷ sẽ bị huỷ hoại do sự tích lũy chết người của libido-bản ngã. Nó bóc lột bản thân một cách tự nguyện và say mê, cho đến khi hoàn toàn suy sụp. Nó tự tối ưu hoá mình cho đến chết. Sự thất bại của nó mang tên trầm cảm và kiệt sức”[6].

Từ những quan sát ấy về một “xã hội kiệt quệ” mà mỗi chúng ta đa phần đang lao vào như loài thiêu thân, Han dẫn độc giả trở lại với dụ ngôn về một “Prometheus mỏi mệt” từ thời Hi Lạp, từng được Kafka lựa chọn để làm ẩn dụ miêu tả cho thời đại mình, và lần này lại được Byung-Chul Han bổ sung thêm những sắc thái mới:

“Trong truyện ngắn đặc biệt bí ẩn Prometheus, Kafka đã sáng tạo thêm một vài thay đổi so với thần thoại Hi Lạp. Trong câu chuyện của Kafka, “các vị thần mệt mỏi, đại bàng mệt mỏi, và vết thương cũng dần khép lại một cách mệt mỏi”. Tôi sẽ chỉnh sửa thêm phiên bản của Kafka, và biến nó thành một khung cảnh mang tính nội tại hơn: chủ thể thành tích đương đại gây bạo lực lên chính mình và gây chiến với chính mình [...] Chủ thể thành tích ngày nay tự cho là mình tự do trong khi trên thực tế, nó bị trói buộc chẳng khác nào Prometheus. Con đại bàng ăn một lá gan không ngừng tái sinh có thể được hiểu là biểu đạt cho một cái tôi khác của chủ thể. Nhìn theo cách này, mối quan hệ giữa Prometheus và đại bàng chính là ẩn dụ cho mối quan hệ tự bóc lột”[7].

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh

Có lẽ không phải ngẫu nhiên Byung-Chul Han lại tìm được những điểm tựa cho góc nhìn triết học của mình từ những ẩn dụ văn học. Dường như văn chương, với sự nhạy bén trong cảm nhận và độ tĩnh tại sâu lắng trong suy tư về xã hội, thường đưa ra được những khái quát thích đáng về xã hội (qua ngôn ngữ của hình tượng nghệ thuật) và thường đem đến được cho người đọc được nhiều sự phản tư hơn cả so với những diễn ngôn đại chúng đương thời. Và trong trường hợp xã hội đương đại ngày nay, nhận định này có vẻ sẽ tương khớp hơn cả khi nói về Thơ. Giữa lúc cả xã hội bấn loạn lên trong cơn sốt của sản xuất và lao động, Thơ níu bước chúng ta chúng ta đi chậm lại để cảm nhận thế giới, nhắc nhở chúng ta rằng mình còn có một linh hồn. Giữa lúc con người đang nhăm nhăm chỉ dùng những chỉ số hiệu suất vô hồn để nhìn nhau và đánh giá nhau, Thơ nhắc rằng mỗi chúng ta còn mang trong mình một trái tim với vô vàn những cung bậc cảm xúc của yêu, ghét, giận, hờn... Giữa lúc cái Tôi bản ngã đang bị đẩy đến mức phì đại để chỉ còn lại mong muốn khẳng định bản thân qua những thành tích mình có được trong lao động, Thơ nhắc chúng ta về sự mong manh và dễ tổn thương của bản ngã, và cả về những khát khao kết nối liên-chủ thể. Đó cũng chính là lý do khiến trong tiểu luận này, tôi muốn đọc thơ Nguyễn Tiến Thanh trong sự song chiếu với những dòng văn triết học của Byung-Chul Han. Cả thơ Nguyễn Tiến Thanh và triết của Byung-Chul Han đều ra đời từ chính đời sống mà chúng ta đang sống, và cùng chia sẻ những chiêm nghiệm sâu xa về trạng huống sống của con người đương thời - một thời đại ghi đậm dấu ấn của tiến trình toàn cầu hoá. Những trang viết của Han khiến người đọc, dù ở đâu, có thể cảm thấy ứng nghiệm khi suy tư về đời sống của chính mình; và những trang thơ của Nguyễn Tiến Thanh cũng có thể là những “nốt nghỉ” để độc giả dừng lại và cảm nhận về đời sống ấy. Mỗi tác giả, đương nhiên, có những cách riêng để trò chuyện và nhắn nhủ tới người đọc, nhưng sự gặp gỡ trong cảm quan về những ám ảnh đương đại là không thể phủ nhận. Và nếu như Han từng nói trong lời nói đầu của cuốn Xã hội kiệt quệ rằng ông mong muốn việc “xem xét, suy tư về sự mệt mỏi” có thể đưa đến một hứa hẹn “chữa lành” nào đó[8], thơ Nguyễn Tiến Thanh cũng đem đến cho ta những khoảng lặng của suy tưởng, những chốn “nghỉ chân” của bay bổng mộng mơ (những gì có lẽ dễ bị chỉ trích phê phán nhất hiện thời, vì không “năng suất”) để phần nào bớt bị cuốn theo một cách không chút phản tư vào vòng xoáy của sự tự vắt kiệt thể xác và tâm hồn của chính mình, và cuối cùng, vươn đến một sự tự do đích thực. Ở đây, cùng với triết luận Xã hội kiệt quả của Byung-Chul Han, các phân tích thơ Nguyễn Tiến Thanh chủ yếu lựa chọn các tác phẩm thơ từ hai tập: Loạn bút hành (2021) và Viễn ca (2024).

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh
Tác giả Byung-Chul Han và sách Xã hội kiệt quệ. Ảnh: artribune.

1. Chối từ “năng suất” bằng ngôn ngữ của trái tim

Ngay trong những dòng thơ đầu tiên trong tập Viễn ca, Nguyễn Tiến Thanh đã như muốn bắt đầu bằng sự đối thoại/ đối chất lại với những diễn ngôn thống soát đương thời về “toàn cầu hoá” và “chỉ tiêu tăng trưởng”. Từ sự nhạy cảm của một nhà thơ, Nguyễn Tiến Thanh chắc hẳn không thể không nhận ra bản chất ‘đồng phục hoá’ của cái gọi là “toàn cầu hoá”. Bất chấp những ngôn từ mĩ lệ về phát triển kinh tế gắn với tư duy “toàn cầu” này, dưới mắt nhiều nhà phê bình văn hoá, diễn ngôn “toàn cầu hoá” đã bị chất vấn vì sự đánh đồng bản sắc, vì sự trấn áp của những nền văn hóa “bá quyền” vốn nắm đặc quyền hơn về kinh tế, và cả sự biến mất của cá tính ở cấp độ cá nhân. Và trước sự đe dọa cùng áp lực về một “thế giới phẳng” như thế, Nguyễn Tiến Thanh nhận ra, những “giấc mơ” - vùng mơ tưởng riêng của mỗi người, sẽ là sợi dây neo bám để mỗi cá thể giữ lại được cho mình những khoảng trời riêng, khước từ lại sự bị giản lược hóa thành những chủ thể kinh tế năng suất:

“Không thể toàn cầu hóa những giấc mơ” (Viết sáng mồng 1)

Nếu những định hướng, phương châm, khẩu hiệu về “toàn cầu” và “tăng trưởng” gắn liền với địa hạt của lý trí và không ngừng chi phối con người bằng cách khích động sự “tích cực” của ý chí, thì “giấc mơ” gắn với địa hạt của vô thức - phần thẳm sâu nhưng cũng khó điều khiển nhất, khó đồng hoá và khó để cưỡng ép phải “vâng phục” nhất ở mỗi người. Byung-Chul Han, trong tiểu luận triết học của mình, cũng cảnh báo về một trong những sự nguy hiểm của thời đại này: đó là sự nguy hiểm của việc “Giống Nhau” (the same). Trích lại nhận định của Baudrillard - “Kẻ nào sống bằng sự Giống Nhau thì cũng chết vì sự Giống Nhau”, Han cho rằng khác với những thời đại trước, khi sự nguy hiểm hay được xác nhận là đến từ bên ngoài (những kẻ ngoại lai, người nhập cư, “kẻ khác” hay các loại virus vi khuẩn), thì đến bây giờ, “Sự Khác Biệt đang biến mất và chúng ta đang sống trong một thời đại quá đỗi nghèo nàn về sự Tiêu Cực”[9]. Tất cả chúng ta, nói cách khác, đang càng lúc càng trở nên giống nhau trong việc cùng chạy đua để phải tích cực hơn nữa, năng suất hơn nữa, thành công hơn nữa, nhưng đó cũng chính là căn nguyên cho sự suy kiệt của chính chúng ta, và một lần nữa mượn cách nói của Baudrillard, Han gọi đây là “bạo lực của việc phải Giống Nhau” (tr.4), và đây là thứ bạo lực tinh thần “không xuất phát từ sự tiêu cực của một hệ thống ngoại lai nào; thay vào đó, nó là bạo lực nội tại của bản thân hệ thống” không ngừng buộc chúng ta phải tự nguyện vắt kiệt chính mình (tr.6). Với Nguyễn Tiến Thanh, sự đồng bộ này, những huyễn tưởng về “hạnh phúc” được vẽ sẵn như một đích đến tất yếu, giống hệt nhau và không thể khác này, đang chỉ càng lúc càng khiến chúng ta “lạc lối”. Nếu như Sarah Ahmed, khi viết cuốn The Promise of Happiness, từng phơi bày bản chất của việc những viễn cảnh hứa hẹn giống nhau về hạnh phúc thực chất chỉ là một cách để quyền lực xã hội thao túng và định hướng chủ thể; thì đây là những câu thơ Nguyễn Tiến Thanh trong bài Chúng ta không trở thành quá khứ của nhau:

“Lạc lối trong cơn say

Ai chỉ đường cho chúng ta

Đến với niềm hy vọng

Dù có thể cuối cùng chúng ta cũng cán đích hạnh phúc

“Hạnh phúc” chẳng phải chính là một đích đến “dư thừa tích cực” mà bất cứ ai cũng đang được cổ xuý để hướng tới? Nhưng Nguyễn Tiến Thanh đủ nhạy cảm để nhận ra rằng, có được những “hạnh phúc” theo những tiêu chuẩn và khuôn mẫu xã hội quy phạm cho ta hoàn toàn không đồng nhất với việc có được “niềm hy vọng”. Những “đích đến” được quy phạm phổ quát của địa vị, vai vế, của kinh tế, của tiêu dùng, của sự ổn định, của một gia đình chuẩn mực… rất có thể sẽ chỉ là những khuôn mòn mà để có được chúng, ta phải đánh đổi bằng tự do, sáng tạo và tình yêu.

Nếu như câu mở đầu bài Viết sáng mồng 1 là sự phủ quyết tham vọng hợp nhất và đồng bộ của diễn ngôn kinh tế, thì câu thơ thứ hai vang lên như một sự giễu nhại:

“GDP tình yêu tăng trưởng liên tục ba năm”

Nguyễn Tiến Thanh như muốn nói đến cơn lốc điên cuồng của đòi hỏi “tăng trưởng” không ngừng, khiến cho đến cả những gì thẳm sâu tha thiết nhất như “tình yêu” giờ đây cũng chẳng khác nào những chiến lược kinh tế, và được cân đo đong đếm bằng những chỉ số tăng trưởng. Tình yêu, nói khác đi, đã bị vật chất hoá tới mức tuyệt đối. Không chỉ thế, lối diễn đạt “tăng trưởng liên tục ba năm” vừa đậm ám ảnh “thành tích” vừa mang đến cảm giác về sự “trơn mượt” vô hồn mà Byung-Chul Han thường xuyên nhấn mạnh trong các luận điểm triết học của mình. Một trong những “đặc tính nổi bật của thời đại ngày nay của chúng ta”, theo Han, là sự “trơn nhẵn” (hay tính “mượt”). Mỹ học của tính “mượt” này, theo ông, đang dần thay thế mỹ học về cái Đẹp: “Sự trơn nhẵn là đặc tính nổi bật của thời đại ngày nay của chúng ta. Bạn có biết G Flex, chiếc điện thoại thông minh của LG không? Nó có một lớp phủ đặc biệt: nếu nó bị dính các vết xước, chúng sẽ tự biến mất sau một thời gian ngắn, tức là nó có một lớp vỏ tự lành, gần như một lớp da hữu cơ. Điều này có nghĩa là cái smartphone luôn giữ được sự nhẵn bóng. Tôi tự hỏi mình, tại sao một vài vết xước lại quan trọng đến thế đối với một đồ vật? Toàn bộ nỗ lực cho một bề mặt nhẵn bóng này là do đâu? Và từ đó chúng ta có một mối nối giữa cái smartphone nhẵn bóng, làn da nhẵn nhụi và tình yêu”[10]. Sự trơn nhẵn này gắn với đòi hỏi lúc nào cũng phải có được cảm giác mượt mà, trơn tru, hài lòng, lúc nào cũng phải được thoả mãn, không vấp váp, không đau đớn. Và Han nhận ra rằng, đó cũng là khi ta từ chối tình yêu đúng nghĩa: “Bề mặt nhẵn bóng trên một cái smartphone là một lớp da không thể bị tổn thương, thủ tiêu toàn bộ các vết thương. Và chẳng phải đúng là trong tình yêu ngày nay, chúng ta cũng tránh né các tổn thương? Chúng ta không muốn mình trở nên mong manh, chúng ta né việc làm đau và bị làm đau theo mọi cách. Tình yêu đòi hỏi nhiều cam kết, nhưng chúng ta tránh né cam kết này, bởi vì chúng dẫn tới tổn thương. Chúng ta tránh né đam mê, bởi rơi vào tình yêu thật quá sức đau đớn”[11]. Đó chẳng phải cũng chính là những gì Nguyễn Tiến Thanh chiêm nghiệm, dẫu chỉ qua một đôi câu thơ súc tích:

“Những đôi lứa bước vào thế giới hôm nay

Bằng ngôn ngữ hoà đàm

chấm dứt mê say” (Viết sáng mồng 1)

Tình yêu dường như không còn đất sống trong thế giới này, và mỗi cuộc hôn nhân hiện lên chẳng khác nào những vụ thoả hiệp thương lượng trơn tru. Và khi tình yêu biến mất, kỉ niệm cũng không còn, sự “trơn mượt” của những cuộc hôn nhân không tình yêu có lẽ, hơn lúc nào hết, giờ đây đã trở thành lựa chọn dễ dàng và thuận lợi hơn hẳn những khốn khổ chông gai mà tình yêu thường hứa hẹn. Nhưng chính trong bài thơ mang tên Chúng ta không trở thành quá khứ của nhau (vốn gắn với một sự lãng quên và xóa bỏ tình yêu, như thể đang vứt bỏ những gánh nặng từ quá khứ để để dễ dàng bước tiếp trong thì hiện tại), Nguyễn Tiến Thanh buộc chúng ta phải đối mặt với câu hỏi “Vì sao?”:

“Vì sao chúng ta không trở thành một phần quá khứ của nhau? Chẳng lẽ người đã quên ánh mắt

Ta trót uống nhầm

Tưởng uống ngàn sao”

Nếu như “không trở thành quá khứ của nhau” là một cách để lãng quên và tránh né mọi tổn thương, khiến trải nghiệm và đời sống của chúng ta bớt băn khoăn hơn, trơn tru thuận lợi hơn; thì nhà thơ dường như lại đang lội ngược dòng để bắt chúng ta phải “nhớ”, dù nỗi nhớ ấy có là niềm đau. Những câu thơ kéo người đọc trở lại với tình yêu, một trải nghiệm có khả năng khơi dậy những cảm xúc và rung động mạnh mẽ của tâm hồn và trái tim, bứt thoát khỏi sự trơn trượt nhàn nhạt của cái hằng ngày. Giữa một “xã hội của tính tích cực” và né tránh mọi trở ngại gồ ghề và giảm thiểu tối đa sự “kháng cự”[12], cả Han và Nguyễn Tiến Thanh đều như đang muốn gợi nhớ cho chúng ta về sự đau đớn nhưng mãnh liệt và đầy đam mê của tình yêu cũng như những trải nghiệm không dễ dàng như ‘nỗi nhớ’ nhưng khiến chúng ta “người hơn”, bớt phần vô cảm hơn:

“Nhưng trái tim luôn âm vang điệp khúc:

Kỷ niệm là một kiện hàng quá khổ

Đè trên vai chúng ta trong suốt tháng năm dài”

Bằng những câu thơ của mình, Nguyễn Tiến Thanh gợi cho chúng ta nhớ lại những cảm xúc và rung động mạnh mẽ mà tình yêu có thể đã từng mang lại. Và đó chính là những gì giúp ta bứt thoát được khỏi sự trơn trượt nhàn nhạt của thời đại này. Bởi lẽ ấy mà thay vì những con số và tiêu chí vô hình, thơ Nguyễn Tiến Thanh liên tục nhắc nhở chúng ta lắng nghe nhịp đập của trái tim mình. Việc lắng nghe này, cũng như những cảm xúc và tình yêu thương xúc động, có thể sẽ không thể biến chúng ta thành những chủ thể năng suất và thành tích như xã hội đương đại đang đòi hỏi, nhưng nó khiến chúng ta trở lại là những con người thay vì những cỗ máy. Sự giác ngộ, do đó, với Nguyễn Tiến Thanh, cũng khởi tự từ trái tim:

“Giác ngộ thường khởi đầu bằng một

rung động mang tính đổ vỡ.

Khi đó tiết tấu là một vang động của

nhịp đập trái tim

Giai điệu là một lộng lẫy của ánh sáng

Và niềm nhớ là một bùng nổ của cơ thể” (Giác ngộ trong cơn đói chân trời)

“Giác ngộ”, một lần nữa, không đến từ sự mượt mà, trơn tuột và tuân phục mà từ những gì sâu thẳm nhất (rung động, trái tim) và thân thể nhất. Nó cũng đến từ sự “trật khớp”, từ những “đổ vỡ”, từ sự hoài nghi để đặt lại câu hỏi; chứ không thể từ việc cứ thế lao đi theo những vòng xoáy của mệnh lệnh.

2. Suy tưởng như một tư thế kháng cự

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh

Song song với việc lắng nghe và mời gọi người đọc đặt xuống gánh nặng đua chen “dư thừa tích cực” (Byung-Chul Han) để lắng lại nghe tiếng vọng của trái tim, Nguyễn Tiến Thanh không ngừng nhắn nhủ chúng ta đừng quên dành những khoảng thời gian và không gian cho sự suy tưởng, cho suy tư và ngẫm ngợi. Những khoảng dừng này, đương nhiên, sẽ dễ dàng bị đánh giá là phí phạm, là lệch lạc khỏi sự vận hành nhịp nhàng của nền kinh tế tân tự do đang đẩy mỗi chúng ta vào sự bóc lột đến kiệt quệ, nhưng dường như với Nguyễn Tiến Thanh, đó mới chính là những khoảng lặng giá trị làm nên ý nghĩa và nhịp độ hài hoà của cuộc sống. Nói khác đi, giữa lúc sự vận hành của đời sống đang muốn tước cả không gian lẫn thời gian dành cho việc suy tưởng, các nhà thơ như Nguyễn Tiến Thanh và các triết gia như Byung-Chul Han như đang muốn thì thầm với chúng ta rằng, hãy dành không-thời gian cho suy tưởng như một cách để kháng cự lại guồng máy vận hành đầy tính phi nhân đang đẩy mỗi chúng ta vào và giữ gìn nhân tính và phẩm giá. Điều này được thể hiện rõ nét trong bài thơ Đường thẳng thuộc tập Viễn ca của Nguyễn Tiến Thanh. Ngay từ khổ thơ đầu tiên, bài thơ đã là một sự chất vấn, một sự kháng cự:

“Đôi khi đi quá nửa con đường

Đột nhiên thấy tại sao mình cần đi đường thẳng?

Tại sao để con đường dẫn ta đi

Và ta đi theo con đường

Như một định mệnh?

Tại sao không chọn một lối rẽ?”

Có thể nói, một khi đã dừng lại và đặt câu hỏi có nghĩa là chủ thể đã không còn coi việc mình là một “con ốc” vừa nằm bên trong vừa tuân phục để đảm bảo sự vận hành của một cỗ máy lớn hơn là đương nhiên. Sự dừng lại để chất vấn này chắc chắn sẽ là điều “hệ thống” (theo cách dùng của Byung-Chul Han) không muốn, thậm chí khó chịu. Nhưng đặt câu hỏi lại được với hệ thống cũng có nghĩa là chủ thể đã không còn chấp nhận nó như một “định mệnh” tất yếu, và không muốn để hệ thống ấy cứ thế nuốt chửng mình, đồng hoá mình. Chủ thể khi ấy rất có thể sẽ mất đi cảm giác về một chủ thể đang trên đà gặt hái thành thích, thậm chí có thể còn thấy khó thích nghi hơn với đời sống này: “Mất gia tốc và quán tính/ Mất thói quen và mất ngôn ngữ”; nhưng đổi lại, thay vì sự trơ mượt vô cảm, chủ thể lúc này sẽ được trải nghiệm “gập ghềnh và bụi rậm”. Dẫu vậy, cao hơn thế, cao hơn cả việc có được một cảm nghiệm sống động hơn về đời sống (chứ không còn chỉ là sự chiều chuộng rỗng nghĩa), còn là việc giành được cho mình những không gian để nghỉ ngơi và suy tưởng:

“Không phải chọn lối rẽ vì muốn có bụi rậm

Càng không phải chọn bụi rậm vì đi trên lối rẽ (....)

Không phải ta ẩn nấp

Ta chỉ ngồi nghỉ, suy tưởng, và mệt đứt hơi(Đường thẳng)

Việc dừng lại để chiêm nghiệm, để suy tư sâu xa (điều mà Byung-Chul gọi là “contemplative attention”) đang là thứ bị rút kiệt trong đời sống ngày nay. Han cay đắng nhận ra rằng sự suy tư trầm lắng đang bị thay thế dần bởi sự tăng động của việc có quá nhiều thứ phải để tâm, và điều ấy khiến con người mất đi khả năng suy ngẫm sâu. Giữa một thế giới phì đại về thông tin và sự hối hả vội vã của chứng FOMO (chứng sợ bị bỏ lỡ), giữa những dòng xoáy của việc phải liên tục khẳng định bản thân qua việc gia tăng năng suất và thành tích, những phút giây chiêm nghiệm bị coi là phí hoài và bị giảm thiểu tối đa khỏi đời sống. Người ta bị kích động để làm việc, để tiêu thụ, để giải trí theo định hướng của truyền thông, để đi “đường thẳng”. Nhưng cả Nguyễn Tiến Thanh và Byung-Chul Han đều như đang níu bước chân ta, rủ chúng ta cùng nghĩ về giá trị của sự chiêm nghiệm. Dẫn lời của danh hoạ Paul Cézanne, “trầm ngâm chiêm nghiệm”, Han nói, “mới có thể cho ta nhìn ra được hương thơm của vạn vật. Việc cảm nhận được hương thơm này đòi hỏi sự chú tâm sâu sắc. Trong trạng thái chiêm nghiệm, người ta bước ra khỏi bản thân, và từ đó, đắm mình vào môi trường xung quanh”[13]. Có thể nói, nếu như sự kích thích sản xuất và thành tích càng lúc càng chỉ kiến cái Tôi bản ngã của mỗi cá nhân trở nên phì đại hơn đến mức “ái kỷ” (Byung-Chul Han), thì sự suy niệm mở ra những cơ hội để lắng nghe và giao hoà hơn với thế giới. Đó cũng như khi Nguyễn Tiến Thanh viết:

“Lá sấu rụng vàng con phố dẫn ta vào suy tưởng

Thành phố thật lạ lùng, cuối mùa mây

là cây trút lá.

Lá của những cây sấu già, và sau đó

là lá của những hàng xà cừ cổ thụ.

(....)

Nơi ấy có những buổi chiều mang tên cảm xúc

Xao xác cỏ cây xao xác chân người.

Trang sách mở hững hờ như một lời mời gọi

Chuyện trò cùng ta lời của thiên niên.” (Chốn cũ, Đoản khúc số 4)

Suy tưởng, như thế, là một sự giao hòa cùng thế giới, là sự lắng nghe và chuyện trò, và cái Tôi chỉ lao mình vào những mệnh lệnh và thành tích xã hội hiện nguyên hình là một cái tôi không suy tưởng, chỉ vắt kiệt mình và đứt gãy kết nối với thế giới - một cái tôi ẩn tàng đầy những nguy cơ “trầm cảm”. Nguyễn Tiến Thanh, bởi vậy, qua những bài thơ của mình, đã mở ra thêm những khả thể khác của sự sống - một sự lắng đọng để giao hoà vô cùng cần thiết cho con người thời đại này.

Không phải ngẫu nhiên tâm thế “suy tưởng” trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Tiến Thanh nhiều lần đến vậy. Suy tưởng là khi “ta” bứt thoát khỏi sự ồn ào thừa mứa thanh âm của đời sống để có được sự tịch lặng của tâm hồn. Và suy tưởng cũng là khi dám đối mặt với những gì là gập ghềnh, là bão giông, và chính điều ấy, theo Byung-Chul, mới chính là con đường dẫn tới cái đẹp và nghệ thuật: “Mượt là dấu hiệu đặc trưng của thời hiện tại… Ngoài hiệu ứng về mặt thẩm mỹ, nó là một mệnh lệnh phổ biến của xã hội. Nó là hiện thân cho xã hội của tính tích cực ngày nay. Cái gì mượt thì không gây đau… nó sẵn tiện cho sự vui thú và tiêu thụ”; trong khi trái lại, như Han dẫn lời Gadamer, “Nghệ thuật chính là vết thương. Nó đối lập với tính tích cực của cái mượt”[14]. Như khi Nguyễn Tiến Thanh viết về sự suy tưởng để nguyện cầu “bão giông”:

“Đó là lúc ta giác ngộ ta trong xa tắp

chân trời.

Trong những giây phút im lặng - hoá thạch

của âm thanh và trầm tích của suy tưởng

Mọi âm thanh ngưng kết

trong một nguyện cầu:

Bão giông ơi - hãy quay về

Để tóc ướt hong khô trên tim hồng như lửa…”

(Giác ngộ trong cơn đói cuối chân trời)

Suy tưởng, bởi vậy, khiến ta biết đam mê hơn nhưng cũng nhức nhối hơn, trăn trở hơn. Một cách thành thật, Nguyễn Tiến Thanh cũng thừa nhận “suy tưởng” không hứa hẹn một sự dễ dãi và làm người ta dễ sống:

“Đó cũng là lúc suy tưởng giống như

khởi đầu của cử chỉ tự vẫn

Xô đẩy ta về một không gian đông cứng

Làm bùng nổ một hố đen, một sát hại,

một nguyện cầu…” (Mông lung)

Nhưng dẫu thế nào, suy tưởng đã được nâng lên thành một tuyên ngôn thơ của Nguyễn Tiến Thanh, và nhà thơ viết riêng một bài lấy tên Suy tưởng:

“Thế giới đã hết xanh non, chỉ còn mộ địa

Nhưng tôi viết

Tôi còn tin và tôi còn suy tưởng

Bởi vì

Vẫn có những giấc mơ và vẫn có các vì sao”

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh

Suy tưởng, như vậy, là một cách thế để tác giả tuyên chiến với một thế giới đã cằn cỗi tuyệt vọng và hoang lạnh. Nguyễn Tiến Thanh, có thể nói, đã không ngừng lên tiếng cho suy tư, cho tâm hồn, cho trái tim, cho cảm xúc, cho những vùng ngơi nghỉ trầm tư của tâm hồn, như một cách thế để đối kháng với sự tuyệt vọng và trầm cảm mà thế giới đương đại đang liên tục tiềm ẩn đầy những nguy cơ đẩy chúng ta vào. Nếu Byung-Chul Han dẫn lời của Nietzsche để bắt bệnh: “Vì thiếu sự ngơi nghỉ, nền văn minh của chúng ta đang biến thành một sự man rợ mới. Chưa bao giờ sự tăng động, bồn chồn, đứng ngồi không yên lại được coi trọng hơn”, và cất lên sự đòi hỏi cấp thiết về phương pháp trị liệu phù hợp cho con người thời đại này: “Một trong những điều chỉnh cấp thiết nhất đối với tích cách của nhân loại bây giờ là phải tăng cường đáng kể yếu tố chiêm nghiệm trong đời sống”; thì Nguyễn Tiến Thanh viết: “Đường thẳng và lối rẽ/ Xa lộ và bụi rậm/ Đều không phải thứ ta cần/ Cuối cùng/ Ta chỉ cần/ Một chỗ nghỉ chân” (Đường thẳng). Sự “nghỉ chân” và chiêm nghiệm, suy tưởng mà thơ Nguyễn Tiến Thanh đòi hỏi chẳng phải chính là ‘liều thuốc giải’ cho những căn bệnh tinh thần trầm trọng Byung-Chul vừa nhắc đến trên đây hay sao?

Không chỉ thế, giống như Byung-Chul nhận ra, “nếu không có sự bình tĩnh suy niệm, ánh mắt của chúng ta sẽ lạc lối không ngừng nghỉ và không tìm được bất cứ sự biểu đạt nào”[15], Nguyễn Tiến Thanh khẳng định suy tưởng chính là tiềm năng của việc viết: “Tôi viết/ Tôi còn tin và tôi còn suy tưởng”, bởi bằng suy tưởng, “tôi” có được sự mộng mơ cho tôi khả năng giao hòa cùng thế giới (Suy tưởng). Bằng sự suy tưởng tĩnh tại kiềm chế bớt “sự giao động không ngừng của đôi mắt” giữa thời đại của thông tin và tiêu thụ hiện nay, thơ Nguyễn Tiến Thanh đã thực sự thể hiện được khả năng “nắm lấy những bàn tay lang thang của tự nhiên” (theo cách dùng từ của Nietzsche)[16]:

“Một hơi gió mềm thoảng qua tại tựa

như tiếng thở dài

Lắng nghe cơn rùng mình của tự nhiên

để giác ngộ hình hài của minh triết” (Chốn cũ)

Hay cũng vậy, ở một bài thơ khác:

Suy nghiệm cuốn ta đi, đến miền đất hứa

Ở đó yêu thương là một nghi thức thiêng liêng

An nhiên là một bí tích nhiệm màu

Cho ta gặp được mùa lang thang trên phố

Gánh hàng hoa và bông cúc trắng” (Giác ngộ trong cơn đói chân trời)[17]

Giữa sự quay cuồng của thời đại, Nguyễn Tiến Thanh ý thức rõ ràng về giá trị của suy tư. Hơn tất cả, nhà thơ gọi đó là cánh cửa đưa ra đến với “miền đất hứa”; nơi không phải sự đua chen hối thúc và quá tải các kích thích cập nhật từ môi trường sống đã bị phong tỏa bởi kĩ thuật số, mà là nơi chốn của an nhiên, của yêu thương, của những cái chạm tay với “mùa” về trên phố. Sự dừng lại, sự tĩnh lại, sự suy tư, thả lỏng, chứ không phải những cơn sốt của sản xuất và tiêu thụ; có lẽ đó mới chính là lúc chạm ta chạm đến được sự tự do thực sự. Bởi đó là khi chúng ta có thể kháng cự lại việc tự biến mình (cả cơ thể, tâm hồn, và toàn bộ con người mình) “thành một cỗ máy hiệu suất [Leistungsmaschine] được trông đợi phải hoạt động liên tục không gián đoạn và tối đa hoá thành tích”[18]. Cũng bởi thế mà thơ Nguyễn Tiến Thanh có nói về sự mệt mỏi và nghỉ chân để lắng lại trong mệt mỏi: “Ta chỉ ngồi nghỉ, suy tưởng và mệt đứt hơi” (Đường thẳng); nhưng cái “mệt đứt hơi” này không phải là sự kiệt sức đến cạn kiệt và trầm uất. Khác với sự kiệt quệ, cái mệt của việc khám phá những con đường khác này cùng trải nghiệm mới mà nó mang lại là cái mệt “cho phép con người trải nghiệm sự bình yên độc nhất, sự thanh thản của việc không làm gì”, và hứa hẹn khả năng đem đến một sự “thấu thị đặc biệt”[19] mà Nguyễn Tiến Thanh, một lần nữa, gọi là “suy tưởng”.

Thơ như là sự kháng cự lại xã hội kiệt quệ - Trường hợp Nguyễn Tiến Thanh
Nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh và tập thơ Viễn ca.

Tạm kết

Bài viết này, tóm lại, tiến hành một thể nghiệm đọc song song thơ của Nguyễn Tiến Thanh với những suy tư triết học của Byung-Chul Han như một cách để lắng nghe dòng suy tư của những trí thức ở những không gian khác nhau về chính thời đại chúng ta đang sống. Trong khi Han cho rằng “những trạng thái rối loạn tâm lý như trầm cảm, kiệt sức là triệu chứng của một khủng hoảng sâu sắc về tự do [...] Chúng ta nghĩ mình tự do. Nhưng thực ra chúng ta tự bóc lột bản thân mình cho đến khi sụp đổ” bởi “thứ logic xảo quyệt của việc phải đạt được thành tựu đã trở thành một thứ lực thường trực thúc đẩy ta vượt trước chính mình… Nhưng tất nhiên, làm sao có thể vượt trước bản thân? Logic phi lý này cuối cùng dẫn đến việc gục ngã”[20]; thì Nguyễn Tiến Thanh, bằng những câu thơ sâu sắc, gọi những ‘con thiêu thân’ hay “chủ thể thành tích” của thời đại này là những kẻ “nghiện mặt trời”, đồng thời phơi lộ sự êm ái chết người của thứ bạo lực ‘bọc đường’ đang khiến con người thời này mỗi lúc một kiệt quệ hơn, mỏi mệt hơn, khủng hoảng về tâm lý hơn, tiệm cần hơn tới cái chết mà vẫn trong một ảo tượng mình được tự do:

“Thuốc gây mê của những kẻ nghiện mặt trời

Êm ái đến mức nguy hiểm

Nghiêng vai đón nhận lực đè nặng khởi

đầu của một trạng thái gần giống như

tử vong:

Kết thúc mọi chiêm ngưỡng

Tiếp cận hư vô

Và làm mất tích cảm xúc” (Trên vai hoàng hôn)

Nhạy cảm trước việc con người thời đại này đang quá dễ dàng lãng quên đi phần cốt tuỷ nhất của sự tồn tại (cảm xúc, tình yêu và trái tim), thơ Nguyễn Tiến Thanh không ngừng nhắc người đọc ý thức lại để cảm nghiệm nỗi mất mát mà mình phải đánh đổi khi lao theo thứ năng lượng dư thừa dương tính của “mặt trời” - một ẩn ý cho danh vọng và sự trương phình của cái “Tôi” bản ngã (đây có lẽ, đồng thời cũng như một lời tự vấn của chính nhà thơ): “Đáy tim mình như cánh đồng sau mùa gặt/ Những cuống rạ cảm xúc bị cắt sát gốc” (Trên vai hoàng hôn).

Đổi lại, để níu giữ lấy trái tim, để khiến con người còn biết rung cảm, còn hướng đến sự hoà điệu liên-chủ thể, còn biết đau và biết yêu thương, Nguyễn Tiến Thanh, dù không thông qua những tuyên ngôn ồn ào, nhưng qua những vần thơ, nhẹ nhàng trao cho ta một gợi mở về câu trả lời: đó là hãy nương tựa vào Nghệ thuật, và cái Đẹp. Trong một cuộc phỏng vấn với Niels Boeing và Andreas Lebert, Byung-Chul Han từng chia sẻ rằng ông đã cảm thấy ấn tượng thế nào khi cách nghe Botho Strauss trả lời khi được hỏi “Ông nhớ điều gì?” Strauss đã đáp ngắn gọn rằng: “Cái Đẹp”[21]. Lời đáp này đã chạm đến Han, và khơi dậy trong Han những cảm nghiệm tương đồng và thấu hiểu của một người cùng thời về nỗi nhớ nhung “Cái Đẹp”. Có lẽ bất cứ một tâm hồn nhạy cảm nào trong thời đại này cũng cảm nhận được sự thiếu vắng ấy: “Ngày nay, bản thân cái đẹp cũng đã bị mượt hoá khi người ta rút khỏi nó tất cả mọi sự phủ định, mọi sự tiêu cực, bất cứ hình thức nào gây shock, gây tổn thương. Cái đẹp bị vắt kiệt trong mệnh lệnh: Hãy Like nó. Sự duy mĩ hoá ra là một phản ứng làm tê liệt cảm giác; nó như là thứ thuốc gây mê chúng ta”[22]. Nhưng giữa cơn khủng hoảng khi “trải nghiệm về cái đẹp trở thành bất khả”[23] này, khi các tác phẩm nghệ thuật đương đại như tác phẩm điêu khắc của Jeff Koons chỉ còn nhắm tới việc trưng ra một hiện diện “không vết thương, không đổ vỡ, không sứt mẻ, không đứt gãy, không cạnh sắc, thậm chí không cả những vết sẹo”[24] chẳng khác nào thứ màn hình di động mà bất kì một chủ thể tiêu thụ nào cũng mơ ước được sở hữu; các nhà thơ như Nguyễn Tiến Thanh lại lên tiếng để nhắc chúng ta rằng, chúng ta còn đã từng có một nghệ thuật khác - một nghệ thuật ra đời từ những nỗi đau và có thể đem lại cho chúng ta niềm đau, bởi không phải chỉ một lướt bấm “Like” mà là nỗi đau, chính nỗi đau, mới khiến chúng ta chậm lại trong cơn lốc của sự “tăng tốc giao tiếp kinh hoàng” (nhờ kỹ thuật số); để lắng nghe và thấu hiểu nhau hơn. Ấy là khi Nguyễn Tiến thanh nhắc lại cho ta về những “trường hợp” của “thơ”:

Pushkin viết những lời độ lượng:

“Cầu cho em được người tình

như tôi đã yêu em”.

Rồi sau đó tử thương vì đấu súng

Trong giã từ còn chưa hết cơn ghen

Mai-a cãi một người đi trước:

“Chết ở trên đời có gì là khó

Nhưng sống - bạn ơi - mới khó hơn nhiều”.

Rồi sau đó “vấp đời phàm tục”

“Vỡ thuyền tình” nên tự bắn tim đau.

Viên đạn xuyên qua nhiều thế kỷ

Rơi xuống thềm - tan vỡ những đêm sâu (Trường hợp của thơ)

Nguyễn Tiến Thanh nhắc chúng ta nhớ về thơ, về tình yêu, về một sự “rơi” (“falling in love/ tomber amoureux”) tiềm ẩn đau đớn, tổn thương - những cảm xúc “tiêu cực” mà không còn ai muốn phải đối mặt và trải nghiệm trong thời đại điên cuồng đuổi theo sự “tích cực”[25]. Nhìn từ góc độ này, có thể thấy, thơ và tình yêu thực sự gần nhau. Kể lại Maia, kể lại Pushkin, những thương tổn và đớn đau của những tâm hồn, và những lời thơ thoát thai từ đam mê và thống khổ, Nguyễn Tiến Thanh như muốn người đọc nhớ rằng, nghệ thuật đích thực, có lẽ, không phải là những thứ trơn mượt, rỗng không, dễ dàng khiến người ta thoả mãn và giải trí, mà rất có thể, là những gì đem đến trải nghiệm đa chiều hơn, kém dễ chịu và chiều chuộng hơn, có thể khiến ta đau khổ, khiến ta phải băn khoăn và phải dừng lại để lắng nghe. Điều này như cũng được Nguyễn Tiến Thanh nhấn mạnh thêm nữa qua những câu thơ như:

“Nhưng bơ vơ đã bay ngang mùa ưu tư

và trôi dọc đường mơ mộng

Thì làm sao khói thuốc không nồng

Cà phê không đắng

Và lặng im không tuyệt đỉnh cô liêu

dằng dặc tái tê?” (Ngày hôm qua)

Xin được khép lại tiểu luận này bằng việc dẫn lại một lời tự bạch của nhà thơ về định mệnh thi sĩ của chính mình:

(...) “Trời sinh ra một giống nòi

Ngồi trong cõi mộng hát lời tim đau.” (Chợt hiện)

Bằng những câu thơ ấy, Nguyễn Tiến Thanh như muốn khu biệt tính đặc thù thiên bẩm của những kẻ là thi sĩ, đồng thời đưa ra một góc nhìn về bản chất của thơ và nghệ thuật. Thi nhân, hơn ai hết, là kẻ sống trong vùng suy tưởng và mơ mộng để khiến những vần thơ của chính mình có thể mở ra những khả thể sống và cảm nghiệm khác ngoài những “đường thẳng” đã vạch sẵn của mệnh lệnh xã hội. Và thay vì sự chiều chuộng thị hiếu hay hiến thơ cho những đòi hỏi của sự mua vui giải trí và tương tác nhanh, thơ cần cất lên từ và âm vọng được những lời “tim đau”, để nhắc mỗi chúng ta về sự mong manh dễ tổn thương của chính mình, và từ đó, sẽ hứa hẹn sự lắng đọng và thấu hiểu, tương liên thay vì sự phì đại và vô cảm của cái “Tôi” cô độc lúc nào cũng bị đe dọa bởi vực thẳm của trầm uất.

Đặng Thị Thái Hà

Phòng Văn học Việt Nam cận-hiện đại, Viện Văn học


[1] Niels Boeing & Andreas Lebert (2015), “Byung-Chul Han: I’m sorry, but those are facts,” https://skorpionuk.wordpress.com. Dẫn theo bản dịch tiếng Việt “Tôi rất tiếc, nhưng đó là thực tế” của Đỗ Hữu Chí, https://www.facebook.com/worldline.aii/posts/byung-chul-han.

[2] Byung-Chul Han (2015), The Burnout Society, Translated by Erik Butler, Stanford California Press, tr. 1. [Các dẫn chứng từ cuốn The Burnout Society trong bài viết đều được lấy từ nguồn trên. Từ đây xin phép chỉ ghi số trang sau mỗi trích dẫn].

[3] Byung-Chul Han (2025), Sự biến mất của nghi thức, Trần Anh Tuấn (dịch), Nxb. Hồng Đức, tr. 42.

[4] Byung-Chul Han (2025), Sự biến mất của nghi thức, Sđd., tr.49.

[5] Niels Boeing & Andreas Lebert (2015), “I’m sorry, but those are facts”, Tlđd.

[6] Byung-Chul Han (2025), Sự biến mất của nghi thức, Sđd., tr.49.

[7] Byung-Chul Han (2015), The Burnout Society, Sđd., tr.35.

[8] Dẫn theo: “Lời giới thiệu”, Sự biến mất của nghi thức, Sđd.

[9] Byung-Chul Han (2015), The Burnout Society, Sđd., tr.4.

[10] Niels Boeing & Andreas Lebert (2015), “I’m sorry, but those are facts”, Tlđd.

[11] Nt.

[12] Byung-Chul Han, Saving Beauty (Cứu lấy cái Đẹp). Dẫn theo bản dịch đăng tải trên: https://hieutn1979.wordpress.com/2025/05/04/byung-chul-han-muot/

[13] The Burnout Society, Sđd., tr. 14.

[14] Byung-Chul Han, Saving Beauty (Cứu lấy cái Đẹp), Tlđd.

[15] Byung-Chul Han (2015), The Burnout Society, Sđd., tr. 15.

[16] Dẫn theo: The Burnout Society, Sđd., tr. 15.

[17] Phần in nghiêng cho người viết bài nhấn mạnh.

[18] Byung-Chul Han (2015), The Burnout Society, Sđd., tr. 30.

[19] Byung-Chul Han (2015), The Burnout Society, Sđd., tr. 32.

[20] Byung-Chul Han, “The Tiredness Virus” (Virus mỏi mệt). Hải Ngọc (dịch) Dẫn theo bản dịch đăng tải trên: https://hieutn1979.wordpress.com/2021/09/08/byung-chul-han-virus-moi-met/

[21] Niels Boeing & Andreas Lebert (2015), “I’m sorry, but those are facts”, Tlđd.

[22] Byung-Chul Han, Saving Beauty (Cứu lấy cái Đẹp), Tlđd.

[23] Nt.

[24] Niels Boeing & Andreas Lebert (2015), “I’m sorry, but those are facts”, Tlđd.

[25] Nt.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.