| Bước vào thế kỷ XXI, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, của mạng Internet, việc hội nhập quốc tế đã ngày càng sâu rộng, văn học đại chúng từ đó hình thành và phát triển mạnh mẽ, điều này đã tạo nên sự quan tâm của xã hội, đặc biệt là của các nhà nghiên cứu văn học. Bài viết của chúng tôi điểm lại quan điểm của các nhà khoa học trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI về mối quan hệ giữa văn học tinh hoa và văn học đại chúng. Bài viết cũng có những suy nghĩ về thực trạng của văn học đại chúng trong 5 năm trở lại đây và sự hội nhập quốc tế của nền văn học chúng ta. |
Kể từ sau Đổi mới 1986, cũng như những sản phẩm văn hóa nghệ thuật khác, văn học đã dần dần chịu sự chi phối của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, suốt mười mấy năm cuối thế kỷ XX, đây chưa phải là vấn đề thu hút sự quan tâm rộng rãi của giới nghiên cứu, vì những vấn đề liên quan đến nội dung phản ánh, thông điệp chính trị – xã hội, ý nghĩa thẩm mỹ, cách tân nghệ thuật của tác phẩm văn học… vẫn là những vấn đề đáng lưu tâm hơn hẳn.
Bước sang thế kỷ XXI, tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam tăng nhanh, sự xuất hiện của mạng internet giúp việc hội nhập quốc tế về mặt văn hóa ngày càng sâu rộng, Luật Xuất bản được sửa đổi, cho phép doanh nghiệp tư nhân tham gia lĩnh vực xuất bản dưới hình thức liên kết, tất cả những điều này đã tạo ra sự lột xác ngoạn mục của thị trường xuất bản. Từ thập niên 2000, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề văn học trong bối cảnh kinh tế thị trường. Đây là thời kỳ của những “hiện tượng xuất bản” thu hút nhiều tranh cãi vì tích thách thức truyền thống của chúng, chẳng hạn như Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, I am đàn bà của Y Ban, Dự báo phi thời tiết của nhóm Ngựa Trời…, hoặc những tác phẩm bán chạy nhưng vẫn được giới phê bình đánh giá cao về mặt giá trị nội dung và ý nghĩa xã hội như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc…
Những năm 2005, 2006 là khoảng thời gian mà Bộ Văn hóa – Thông tin ban hành rất nhiều lệnh thu hồi và nhắc nhở. Trước tình hình này, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã tổ chức hội thảo cấp quốc gia Văn học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập vào ngày 17/11/2008. Nhìn chung, những tham luận trong hội thảo này có tính chất phác thảo, nhận diện những tác động cơ bản của kinh tế thị trường đến văn học với một thái độ khá dè dặt, thận trọng. Các nhà nghiên cứu thừa nhận những tác động tích cực của cơ chế thị trường như tạo động lực mới cho văn học, nhưng đại đa số là tỏ ra lo lắng trước những tác động tiêu cực của nó nhiều hơn, khiến họ khá quan tâm đến những vấn đề liên quan đến quản lý văn hóa, văn nghệ, đồng thời đề cao trách nhiệm của nhà văn không chỉ với sự phát triển của văn học mà của nhận thức thẩm mĩ của toàn xã hội nói chung. Có thể thấy ý này trong các bài viết Khi văn chương được xem là hàng hóa (Hữu Thỉnh), Phát triển văn hóa, nghệ thuật trong cơ chế thị trường (Dương Trọng Dật), Văn học nghệ thuật dưới tác động hai mặt của cơ chế thị trường (Phan Trọng Thưởng), Thị trường văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay – nhận thức và thực tiễn (Trần Luân Kim)… Trước đó, vào năm 2005, Phạm Tú Châu có bài Văn học Trung Quốc trong kinh tế thị trường đăng trên tạp chí Cộng sản, nhìn ra thế giới để học hỏi kinh nghiệm từ nước bạn. Năm 2009, Viện Văn học thực hiện đề tài cấp Bộ Tác động của kinh tế thị trường đến văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Tương tự như hội thảo nói trên, mối quan tâm đáng chú ý của nhóm tác giả đề tài vẫn là làm sao để văn học Việt Nam phát triển đúng hướng trong bối cảnh kinh tế thị trường mà không có những can thiệp chủ quan, thô bạo vào thị trường văn học. Năm 2010, Đỗ Hải Ninh có bài Tác động của cơ chế thị trường đến tiếp nhận văn học, Lê Hương Thủy có bài Xuất bản sách văn học trong cơ chế thị trường, trong đó thể hiện sự băn khoăn về sự xuống cấp của văn hóa đọc, quan sát thấy tuy số đầu sách xuất bản hằng năm tăng nhưng số bản in trên mỗi đầu sách lại ít đi, có những cuốn sách được tái bản không hẳn nhờ giá trị đích thực mà do tâm lý hiếu kỳ của người tiêu dùng.
Đến thập niên 2010, khái niệm “văn học thị trường” rộ lên trên truyền thông đại chúng. Khác với những hiện tượng gây tranh cãi trong vài năm trước đó, lúc này những best-seller của người viết trẻ khiến các nhà phê bình lưu tâm bởi chúng có nội dung và cách viết cực kỳ đơn giản nhưng được yêu thích rộng rãi vì tính giải trí, như các tản văn của Anh Khang, Phan Ý Yên…, truyện của Dương Thụy, Gào, Keng, Nguyễn Ngọc Thạch, Hamlet Trương, Iris Cao…, du ký của Huyền Chip, Phan Việt…, thơ của Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thiên Ngân, Nồng Nàn Phố… Trong hội thảo Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: Thực trạng và triển vọng tổ chức ngày 28/5/2015 tại Viện Văn học, Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy có tham luận Văn học thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh bàn luận về sự xuất hiện của khái niệm “văn học thị trường” cũng như sự liên quan của nó với khái niệm “văn học đại chúng” đã từng phổ biến mấy mươi năm trước trong không gian văn học đô thị miền Nam. Một năm sau đó, Viện Văn học tổ chức hội thảo Thị trường văn học và văn học thị trường: lý luận và thực tiễn vào ngày 29/8/2016 thu hút gần 50 tham luận. Các tham luận này sau đó lần lượt được công bố dưới dạng bài báo khoa học ở nhiều tạp chí như Nghiên cứu văn học, Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, các tạp chí khoa học của các trường đại học… Nhìn chung, các bài viết này đã bàn luận về văn học thị trường và văn học đại chúng ở cả bề rộng lẫn bề sâu. Ở bề rộng, các nhà nghiên cứu mô tả diện mạo và đặc trưng của văn học đại chúng, giới thiệu những tác giả, tác phẩm tiêu biểu qua những chặng đường cụ thể, đưa ra những nhận xét tổng quát về ý nghĩa của bộ phận văn học này trong nền văn học Việt Nam đương đại. Ở bề sâu có những bài viết phân tích những yếu tố nội tại lẫn tác động ngoại lực đến văn học đại chúng. Ở đây, ta thấy có nhiều nhà nghiên cứu lại tiếp tục bàn luận vấn đề mối quan hệ giữa thị trường và văn học như Trần Đình Sử (2016) với Mấy suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn học và thị trường, Đỗ Lai Thúy (2016) với Văn học Việt Nam từ “văn hóa quà tặng” đến “văn hóa hàng hóa”, Phương Lựu (2016) với Sự thống nhất mâu thuẫn giữa hoạt động văn học với kinh tế thị trường, Huỳnh Vân (2016) với Tác giả, tác phẩm, độc giả trong thị trường văn học, Nguyễn Đăng Điệp (2017) với Kinh tế thị trường, xã hội tiêu dùng và văn học đại chúng, Nguyễn Thế Kỷ (2020) với Văn học trong cơ chế thị trường, Phùng Ngọc Kiên (2024) với Vai trò của báo chí và xuất bản đối với văn học trong sự chuyển đổi nền kinh tế… Có những bài phân tích các trường hợp tác giả cụ thể, như Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư, hoặc sử dụng những công cụ lý thuyết để giải mã một số khía cạnh của văn học đại chúng, chẳng hạn như Internet và văn học đại chúng – từ giải trung tâm đến giải nhị phân viết – nói (trường hợp “Có một phố vừa đi qua phố” của Đinh Vũ Hoàng Nguyễn) của Trần Văn Toàn, Một số tác giả văn học thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh đầu thế kỷ XXI nhìn từ lý thuyết “trường” của Pierre Bourdieu của Nguyễn Thị Phương Thúy…, hoặc nhìn ra nước bạn để mở rộng tầm nhìn, chẳng hạn như Từ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung bàn về đặc trưng văn học đại chúng của Trần Văn Trọng, Thực trạng văn học thị trường Trung Quốc đương đại của Nguyễn Thị Thúy Hạnh… Từ chỗ dè dặt và lo lắng trước các tác nhân của thị trường, các nhà nghiên cứu lúc này đã xem quy luật thị trường đối với văn học là có tính khách quan và văn học đại chúng là một xu thế có tính toàn cầu. Từ chỗ lo lắng thị trường có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chân – thiện – mỹ trong văn học và suy tính về những cơ chế quản lý có tính chất nhà nước đối với thị trường văn học, các nhà nghiên cứu đã dần có cái nhìn lạc quan và toàn diện hơn về văn học đại chúng cũng như tác động qua lại của nó với văn học tinh hoa.
Cũng trong khoảng thời gian này, Viện Văn học triển khai đề tài nghiên cứu cấp bộ Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đương đại do Nguyễn Đăng Điệp chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2020 và in sách chuyên khảo năm 2021. Đây là công trình công phu và đầy đủ nhất về văn học đại chúng Việt Nam tính đến thời điểm này. Công trình khảo sát lịch sử hình thành và phát triển văn học đại chúng ở Việt Nam qua các giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, 1945-1975, sau 1975; phân tích những tiền đề lịch sử, văn hóa xã hội dẫn tới sự phát triển của văn học đại chúng, bao gồm đô thị hóa và kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, dân chủ hóa và ảnh hưởng của văn học đại chúng nước ngoài, công nghệ bao gồm internet và công nghệ phục vụ văn hóa; phân tích các thể loại tiêu biểu của văn học đại chúng như truyện hình sự, trinh thám, kinh dị, ngôn tình, truyện khoa học viễn tưởng, kiếm hiệp, tự truyện, hồi ký, du ký, truyện tranh; phân tích sự giao thoa giữa các thể loại văn học, sự chuyển thể hình thức nghệ thuật, sự dung hợp văn học tinh hoa và văn học đại chúng. Thông qua việc phân tích cộng đồng văn học đại chúng gồm người đọc và người viết, nhóm tác giả đề xuất một cái nhìn toàn diện về văn học đại chúng cũng như các ứng xử phù hợp từ phía người đọc, người viết và nhà quản lý văn học nghệ thuật.
Nhìn chung, văn học đại chúng Việt Nam đã được nghiên cứu khá toàn diện dựa trên thực tiễn sáng tác và tiếp nhận tính đến những năm cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Ngoài việc hiểu rõ hơn về đặc trưng và quy luật của văn học đại chúng để có những ứng xử phù hợp, các nhà nghiên cứu đã có xu hướng xem văn học đại chúng như một trong những biểu hiện của quá trình hội nhập của Việt Nam vào dòng chảy văn hóa toàn cầu. Ở mục kế tiếp, chúng tôi sẽ bàn đến tình hình văn học đại chúng trong khoảng 5 năm gần đây, tức là 5 năm đầu của thập niên thứ ba trong thế kỷ XXI, đồng thời trình bày một vài suy nghĩ về quá trình hội nhập quốc tế của văn học đại chúng trong sự đối sánh với những loại hình nghệ thuật đại chúng khác.
![]() |
| Hội thảo "Thành tựu cơ bản của Văn học Việt Nam sau năm1975: Diện mạo, khuynh hướng và thể loại" |
Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, văn học thị trường/ văn học đại chúng dường như lắng xuống và ít thu hút sự chú ý hơn so với thập niên trước đó. Sau những tranh luận sôi nổi và những nghiên cứu có chiều sâu, các nhà nghiên cứu đã hiểu rõ, và từ đó bình thản dần trước sự tồn tại của những tác phẩm best-seller trong không gian văn học đương đại. Những tác phẩm, tác giả từng gây nên các cơn sốt đình đám trong thập niên 2010 cũng được thời gian và công chúng sàng lọc lại. Những cái tên như Anh Khang, Nguyễn Ngọc Thạch, Hamlet Trương, Iris Cao, Phan Ý Yên, Huyền Chip, Nồng Nàn Phố… không còn lưu lại nhiều trong ký ức của đám đông khi họ không còn tiếp tục ra sách mới. Cá biệt, tác giả Gào Vũ Phương Thanh từ chỗ là một tác giả có sách bán chạy lại bị công chúng trẻ chế nhạo trên nhiều diễn đàn mạng xã hội vì cách ứng xử, khiến những tác phẩm của cô bị vạ lây, bị soi lại và bài xích. Ngược lại, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục là những tác giả có sách bán chạy nổi bật. Công chúng không lãng quên họ nhờ uy tín văn học mà họ đã tạo lập, và cũng do họ vẫn bền bỉ ra sách mới.
Trong 5 năm vừa qua cũng không thấy những hiện tượng sách bán chạy thu hút sự chú ý trên diện rộng, tạo thành những hiện tượng trong thị trường xuất bản như trước kia nữa. Ông Nguyễn Thành Nam, Phó giám đốc NXB Trẻ, cho biết độc giả trẻ có xu hướng chuyển sang lựa chọn sách phi hư cấu, đặc biệt là các sách kỹ năng, nhiều hơn là sách hư cấu (theo Hồ Sơn, 2020). Danh mục sách bán chạy được một số nền tảng bán sách trực tuyến tổng hợp từ số liệu thị trường như danh mục của Fahasa năm 2023, danh mục của Vinabook năm 2024, số liệu tính đến thời điểm hiện tại của trang Tiki.vn đều cho thấy tình trạng thực tế như Nguyễn Thành Nam đã nêu. Các tác phẩm văn học lọt vào những danh sách này đa phần là tác phẩm dịch. Đức Huy (2024) cũng nhận định thị trường sách văn học trong nước đang rơi vào giai đoạn ảm đạm.
Chúng tôi chưa thể thực hiện một nghiên cứu toàn diện để đưa ra những lý giải cặn kẽ cho sự thoái trào của các best-seller cũ và sự vắng mặt của các best-seller mới trong lĩnh vực sách văn học ở Việt Nam, nhưng xin đưa ra một vài suy đoán như sau.
Thứ nhất là tính tất yếu của xu hướng: có thịnh có suy. Những lối sáng tác khi trở thành công thức và bùng nổ với số lượng lớn sẽ đến lúc trở nên nhàm chán và khiến công chúng “bội thực”. Nếu các tác giả đại chúng không có sức bền trong sáng tác hay sự đổi mới lối viết đáp ứng thị hiếu thì khó giữ chân được người hâm mộ nói riêng và công chúng nói chung. Không riêng gì trong văn học mà ở những loại hình giải trí đại chúng khác như âm nhạc hay nghệ thuật biểu diễn, người sáng tác luôn phải ra sản phẩm mới thường xuyên để duy trì độ nhận diện trong thị trường. Ngược lại, tác phẩm văn học kinh điển/ văn học tinh hoa, luôn có sức đi đường dài nhờ giá trị biểu trưng của chính nó. Chẳng hạn Nỗi buồn chiến tranh được tái bản đều đặn suốt từ thập niên 1990 đến nay, thậm chí từ 2014 còn được tái bản hằng năm. Tác phẩm còn nhận được hai giải thưởng ở Hàn Quốc: Giải thưởng văn học Sim Hun vào năm 2016 và Giải thưởng văn học châu Á năm 2018. Không dày đặc như Nỗi buồn chiến tranh nhưng các tác phẩm khác cùng thời như Thời xa vắng, Ăn mày dĩ vãng, Mùa lá rụng trong vườn, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp… vẫn được tái bản rất đều, cách 2-3 năm là tái bản. Những tác phẩm xưa hơn, chẳng hạn như truyện của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Tự lực văn đoàn… cũng thế. Những giá trị biểu trưng này được chọn lọc qua thời gian, được khẳng định bởi những nhà phê bình, nghiên cứu, được củng cố, tôn vinh, và lan tỏa đến những thế hệ sau thông qua thiết chế giáo dục. Trong khi đó, văn học đại chúng chỉ có sự yêu thích của đám đông tại thời điểm nó xuất hiện. Muốn không bị công chúng lãng quên, người viết phải liên tục đáp ứng thị hiếu của họ, hoặc duy trì sức hút thông qua kết nối với những hình thức sinh hoạt nghệ thuật đại chúng khác, chẳng hạn như phim ảnh.
Thứ hai là sự thay đổi của mạng xã hội trong những năm vừa qua. Thập niên 2000 chứng kiến sự xuất hiện và phổ biến của mạng Internet với những trang web và blog văn học. Tuy tính tương tác hai chiều còn chưa cao lắm, nhưng chính khả năng vượt qua những thiết chế kiểm duyệt truyền thống của chúng đã làm thay đổi hình thức sáng tác và phổ biến văn học, mang đến cho công chúng những tác phẩm đầy tính thách thức và gây ồn ào trong văn giới. Văn học mạng cũng ra đời và bắt đầu gây chú ý trong thập niên này với các tác phẩm dịch của Trang Hạ, các sáng tác của Hà Kin, Trần Thu Trang… Thập niên 2010 chứng kiến sự phổ biến của mạng xã hội facebook ở Việt Nam, với tính tương tác và tính dân chủ vượt trội so với các trang web và blog văn học. Với đặc trưng này, Facebook góp phần quan trọng trong việc tạo nên các trào lưu thưởng thức văn học. Người viết trẻ sáng tác và chia sẻ sáng tác của mình trên mạng xã hội, thu hút người hâm mộ không chỉ với tác phẩm của mình mà còn với phong cách cá nhân mà họ tạo dựng. Mạng xã hội thúc đẩy những sáng tác ngắn, đơn giản, nắm bắt những cảm xúc thoáng qua, kể lại những câu chuyện phổ biến, những trải nghiệm mới mẻ, dễ được đồng cảm bởi nhiều người trẻ. Đặc biệt, các sáng tác thơ được chia sẻ rất nhanh và rộng, tạo nên sự phổ biến của những cái tên như Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thiên Ngân, Nồng Nàn Phố… Đến nay, facebook vẫn là mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam, chiếm hơn 90% người dùng mạng xã hội theo chuyên trang thống kê Statista (Minh-Ngoc Nguyen, 2025). Việc đất nước có đến hơn 70% dân số là người dùng mạng xã hội đã khiến mạng xã hội trở thành một tác nhân quan trọng chi phối đến các khía cạnh đời sống xã hội, trong đó có việc đọc. Tuy nhiên, một sự thay đổi rất đáng lưu ý về mạng xã hội trong những năm vừa qua rất có thể đã tác động đến việc đọc sách nói chung và việc đọc sách văn học nói riêng ở Việt Nam, đó là sự xuất hiện và tăng trưởng nhanh chóng của tikTok. Ra mắt toàn cầu năm 2016 và chính thức vào Việt Nam vào ngày 24/04/2019, đến nay, tikTok đã trở thành nền tảng mạng xã hội phổ biến hàng đầu trong thế hệ Z (những người sinh trong khoảng từ năm 2000 đến năm 2010), với hơn 80% người dùng Internet thuộc thế hệ này là người dùng tikTok (Minh-Ngoc Nguyen, 2025). Khác với facebook nơi người dùng vẫn còn sử dụng ngôn ngữ viết để chia sẻ suy nghĩ và trải nghiệm (tuy mức độ sử dụng ngôn từ đã ít hơn rất nhiều so với blog yahoo!360o từng phổ biến vào cuối thập niên 2000), tikTok là mạng xã hội của những video ngắn. Sự giảm thiểu nghiêm trọng của ngôn ngữ viết trên tikTok làm suy giảm hứng thú của người dùng với việc đọc. Độ ngắn của các video khiến tốc độ của thao tác lướt mạng tăng lên, làm suy giảm khả năng tập trung của người dùng, vốn là một yếu tố cần thiết trong việc đọc sách và thưởng thức nghệ thuật ngôn từ. Không chỉ giới hạn ở tikTok, các video ngắn cũng đã lan tỏa đến những mạng xã hội khác như facebook, youTube… Những yếu tố này có thể phần nào lý giải cho sự vắng bóng của những tác giả best-seller mới trong văn chương, khi mà người đọc trẻ – đối tượng phục vụ chính của họ, cũng là bộ phận công chúng giàu cảm xúc, dễ bị ảnh hưởng bởi xu hướng – đã suy giảm dần hứng thú bởi sự tác động của những thay đổi của các nền tảng mạng xã hội video ngắn.
Về hội nhập quốc tế, chúng ta cũng có nhiều tín hiệu đáng chú ý. Nhiều tác phẩm của Hồ Anh Thái đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ấn hành ở nước ngoài. Các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Nhật Ánh đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Hàn và đạt các giải thưởng của Hàn Quốc, Trung Quốc. Hai tiểu thuyết The Mountains Sing và Dust Child của Nguyễn Phan Quế Mai cũng được giới thiệu ra thế giới và đạt nhiều giải thưởng… Ngược lại, nhiều nhà văn ở hải ngoại như Thuận, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Văn Thọ… lại đem tác phẩm về in trong nước.
Kết luận
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta, bên cạnh văn học tinh hoa, đã xuất hiện văn học đại chúng. Văn học đại chúng, với những đặc điểm của nó, đã có quá trình hình thành từ sau thời kỳ Đổi mới và phát triển mạnh mẽ ở khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XXI. Từ thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, văn học đại chúng đã lắng xuống do nhiều lý do, thứ nhất là do giá trị nghệ thuật của nó, thứ hai là do sự thay đổi của mạng xã hội. Văn học tinh hoa, do giá trị biểu trưng của nó, trái lại vẫn có chỗ đứng vững chắc trong lòng người đọc, thậm chí có trường hợp đã vươn ra khỏi biên giới của đất nước, mặc dù văn hóa đọc đã xuống cấp nhiều do sự lên ngôi của mạng xã hội.
----------------
Tài liệu tham khảo
Bùi Công Thuấn (2016). Văn chương 2016, một góc nhìn. Blog Bùi Công Thuấn. https://buicongthuan.wordpress.com/2016/12/
Đỗ Hải Ninh (2017). Văn học mạng như là hiện tượng của văn học đại chúng trong không gian văn hóa Việt Nam đương đại. Nghiên cứu Văn học (9), tr. 3-14.
Đỗ Lai Thúy (12/12/2016). Văn học Việt Nam từ “văn hóa quà tặng” đến “văn hóa hàng hóa”. Văn nghệ Quân đội, http://vannghequandoi.com.vn/in-bai/van-hoc-viet-nam-tu-van-hoa-qua-tang-den-van-hoa-hang-hoa-9830_6670.html
Đức Huy (22/06/2024). Bức tranh ảm đạm của thị trường sách văn học trong nước. Tạp chí Tri thức Trực tuyến. https://znews.vn/buc-tranh-am-dam-cua-thi-truong-van-hoc-post1482055.html
Fahasa (2024). 100 tựa sách bán chạy nhất năm 2023 – số liệu do Fahasa tổng hợp từ số liệu thị trường năm 2023. Fahasa.com. https://www.fahasa.com/top-100-best-seller?srsltid=AfmBOoqMi4D0tamRP8oLvl4kmAf494pp-35kSsZ0y94FDTeVOFcNX49U
Hiểu Nhân (1/1/2022). Những cuốn sách bán chạy ở Việt Nam. VNexpress. https://vnexpress.net/nhung-cuon-sach-ban-chay-o-viet-nam-4409518.html
Hồ Sơn (12/01/2020). Sách best-seller khó định hình xu hướng. Sài Gòn Giải phóng Online. https://www.sggp.org.vn/sach-best-seller-kho-dinh-hinh-xu-huong-post543675.html
Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương (2009). Văn học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập. Hà Nội: NXB. Chính trị Quốc gia.
Huỳnh Vân (2016). Tác giả, tác phẩm, độc giả trong thị trường văn học. Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn 19(44). https://vannghiep.vn/tac-gia-tac-pham-doc-gia-trong-thi-truong-van-hoc.html
Lê Dục Tú (2017). Tác động của kinh tế thị trường đến văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam (5), tr. 65-71.
Lê Hương Thủy (2017). Văn học mạng Việt Nam: Từ không gian mạng đến việc khai thác thị trường xuất bản tác phẩm. Nghiên cứu Văn học (8), tr. 15-24.
Lý Vĩnh Sinh (23/12/2024). Top 10 cuốn sách bán chạy nhất nên đọc năm 2024. Vinabook. https://www.vinabook.com/blogs/news/top-10-cuon-sach-ban-chay-nhat-nen-doc-nam-2024?srsltid=AfmBOoqs2IyHtQ7uzPCo2b9nN-ZDyDbn4TxsjKDrEb_aoLcBxtAXpv8u
Minh-Ngoc Nguyen (07/08/2025). Social media in Vietnam, statistics and facts. Statista. https://www.statista.com/topics/8182/social-media-in-vietnam/#topicOverview
Nguyễn Đăng Điệp (2016). Kinh tế thị trường, xã hội tiêu dùng và văn học đại chúng. Nghiên cứu văn học (11), tr. 3-12.
Nguyễn Đăng Điệp (2017). Văn học đại chúng ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam (7), tr. 31-39.
Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên) (2021). Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đương đại. Hà Nội: NXB. Khoa học Xã hội.
Nguyễn Nhàn (17/03/2020). Cơ chế thị trường khiến các nhà xuất bản đang ngày càng năng động hơn. Tạp chí Thông tin Truyền thông. https://ictvietnam.vn/co-che-thi-truong-khien-cac-nha-xuat-ban-dang-ngay-cang-nang-dong-hon-36678.html
Nguyễn Thanh Tâm (03/09/2017). Giá trị của văn học đại chúng trong cấu trúc văn hóa đương đại. Văn nghệ Quân đội. http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/gia-tri-cua-van-hoc-dai-chung-trong-cau-truc-van-hoa-duong-dai-10904_2678.html
Nguyễn Thế Kỷ (2020). Văn học trong cơ chế thị trường. Nghiên cứu Văn học (1), tr. 5-12.
Nguyễn Thị Bích Thúy (2013). Murakami Haruki và sự xóa nhòa ranh giới giữa văn học thuần túy và văn học đại chúng Nhật Bản. Nghiên cứu Văn học (1), tr. 126-137.
Nguyễn Thị Mai Liên (2022). Hiện tượng dung hợp văn học đại chúng – thuần túy/tinh hoa: đối chiếu Hạ đỏ của Nguyễn Nhật Ánh, Tugumi của Y. Banana từ góc nhìn mạn họa thiếu nữ Nhật Bản. Nghiên cứu Văn học (1), tr. 13-20.
Nguyễn Thị Ngọc Hiền (01/06/2023). Thị trường sách thiếu nhi Việt Nam – Châu Á đang rộng mở. Nhà xuất bản Kim Đồng. https://nxbkimdong.com.vn/ blogs/news/thi-truong-sach-thieu-nhi-viet-nam-chau-a-dang-rong-mo
Nguyễn Thị Phương Thuý (2017). Một số tác giả văn học thị trường ở TP. HCM nhìn từ lý thuyết “trường” của Pierre Bourdieu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 14 (5), tr. 39-54.
Nguyễn Thị Thúy Hạnh (18/12/2017). Thực trạng văn học thị trường Trung Quốc đương đại. Văn Việt. https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/thuc-trang-van-hoc-thi-truong-trung-quoc-duong-dai/
Phạm Tú Châu (2005). Văn học Trung Quốc trong kinh tế thị trường. Tạp chí Cộng sản (15), tr. 81-84.
Phùng Ngọc Kiên (2024). Vai trò của báo chí và xuất bản đối với văn học trong sự chuyển đổi nền kinh tế. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội (86), tr. 86-94.
Phương Lựu (2016). Sự thống nhất mâu thuẫn giữa hoạt động văn học với kinh tế thị trường. Nghiên cứu Văn học (11), tr. 18-22.
Trần Đình Sử (2016). Mấy suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn học và thị trường. Nghiên cứu Văn học (11), tr. 13-17.
Trần Văn Toàn (2017). Internet và văn học đại chúng – từ giải trung tâm đến giải nhị phân viết – nói (trường hợp Có một phố vừa đi qua của Đinh Vũ Hoàng Nguyễn). Nghiên cứu Văn học (7), tr. 74-82. https://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/p/481
Trần Văn Trọng (2017). Từ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung bàn về đặc trưng văn học đại chúng. Văn hóa Nghệ thuật (394), tr. 125-129. http://vanhoanghethuat.vn/tu-tieu-thuyet-vo-hiep-kim-dung-ban-ve-dac-trung-van-hoc-dai-chung.htm
Võ Văn Nhơn & Nguyễn Thị Phương Thúy (2015). Văn học thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu Văn học, (9), tr. 89-104.
----------------
Bài viết được khai thác từ tham luận Hội thảo" Thành tựu cơ bản của Văn học Việt Nam sau năm 1975: Diện mạo, khuynh hướng và thể loại"