Diễn đàn lý luận

Về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX

Đỗ Đức Thuần
Lý luận phê bình 11:58 | 08/11/2025
Baovannghe.vn - Cuộc xâm lược của thực dân Pháp có tác động lớn đối với xã hội Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng, đánh dấu một bước ngoặt mới của lịch sử dân tộc, nó cũng gắn liền với những đổi thay sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội – chính trị – kinh tế – văn hóa…
aa

Đặc biệt là sự thay đổi diện mạo của nền văn học. Những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX, nền văn học dân tộc chứng kiến sự tan rã của nhiều quan niệm văn học trung đại. Tuy thế, một quan niệm văn học cho thời kỳ cận hiện đại vẫn chưa được xác lập một cách vững chắc. Văn học đang dò dẫm tìm lối đi trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp và văn học Trung Quốc. Song song với sự đổ vỡ của nền văn học cũ về nội dung, hình thức, thể loại, văn tự, là sự hình thành một quan niệm văn học mới. Tuyên ngôn của nền văn học mới, một chừng mực nào đó được phát biểu trong lời tựa cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ, truyện Thầy Lazarô Phiền, đã nói lên quan niệm nghệ thuật mới mẻ rất khác với tiểu thuyết trung đại về cuộc sống, xã hội và con người: “Đã biết rằng dân ta chẳng thiếu chi thơ văn phú truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà những đấng thuộc về đời xưa, nay chẳng còn nữa. Bởi vì đó tôi mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường có trước mắt ta luôn như vậy sẽ có nhiều người lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải buồn một giây”.

Về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX

Trần Chánh Chiếu trong cuốn Hoàng Tố Oanh hàm oan (1910) mới khẳng định lại: “Từ ngày các đấng cao minh trong lục châu bày diễn dịch các thứ chuyện chữ nho ra quốc âm, thì ít thấy có chuyện nào nói về việc trong xứ mình. Các truyện đang làm là chuyện Tàu. Nay tôi ngụ ý soạn một bổn mới nói về xứ mình, dùng tiếng nói thường cho mọi người hiểu đặng”.

Những phát biểu này đã phần nào nói lên được đặc điểm và tính chất của nền văn học mới, “dùng tiếng nói hằng ngày”, viết những chuyện “đặt ra” cho “mọi người hiểu đặng”. Một xu hướng thể hiện sự dân chủ hoá trong văn học.

Tiểu thuyết Nam Bộ hướng về những vấn đề phong phú trong xã hội như vấn đề phong tục, vấn đề tâm lý xã hội, hiện thực xã hội, vấn đề lịch sử, vấn đề đời tư. Mặt khác, yêu cầu của công cuộc đổi mới nền văn học không chỉ dừng ở mức đổi mới về nội dung mà còn là sự đổi mới về hình thức thể hiện, tức đòi hỏi sự đa dạng về chủng loại. Vì vậy tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn này đã phát triển rầm rộ theo nhiều khuynh hướng mà tiểu thuyết lịch sử là một trong những khuynh hướng nổi bật nhất cả về số lượng tác phẩm, tác giả, cũng như thành tựu: có một số nhà văn Nam Bộ chuyên viết tiểu thuyết lịch sử, ngay những người không chuyên về đề tài này cũng viết ít nhất một vài cuốn.

Vào đầu thế kỉ XX, thể loại tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện và lên đường hiện đại hóa. Từ Hoàng Tố Oanh hàm oan của Trần Chánh Chiếu (1910) đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925), tiểu thuyết lịch sử đã đồng thời xuất hiện và đến hơn một thế kỷ sau, đã là những thử nghiệm và đóng góp quý báu cho văn học Việt Nam. Nhiều thế hệ người đọc đã bị lôi cuốn vì nét đẹp nên thơ của lịch sử được kể lại, văn chương hóa, hoặc vì tài người viết, dù đâu đó vẫn có người đã khó chịu với thể loại họ cho là lai căng, không văn chương thuần túy, một loại ăn bám. Nhà thơ Chateaubriand đã “kết tội” Walter Scott, ông tổ thể loại tiểu thuyết lịch sử ở phương Tây, đã làm đồi trụy (perverti) cả tiểu thuyết lẫn lịch sử.

Thể loại tiểu thuyết lịch sử đặc biệt được yêu thích ở Nam Bộ với các nhà văn tên tuổi: Trương Duy Toản, Phạm Minh Kiên, Nguyễn Chánh Sắt, Tân Dân Tử, Hồ Biểu Chánh… Trong số đó, nhà văn Nam Bộ đầu tiên viết tiểu thuyết về lịch sử dân tộc trước triều Nguyễn là Hồ Biểu Chánh với tác phẩm Nam cực tinh huy (tiểu thuyết lịch sử viết về Ngô Quyền, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1924), sau ông còn có một số nhà văn Nam Bộ tên tuổi khác lấy cảm hứng từ đề tài này như: Nguyễn Chánh Sắt, Phạm Minh Kiên… Việc một số nhà văn Nam Bộ vào thập niên hai mươi của thế kỉ XX viết về lịch sử các triều Tiền Lê, Lý, Trần là một hiện tượng đặc biệt, mới mẻ đánh dấu một bước tiến mới về nhận thức và cảm hứng sáng tác trong văn học Nam Kỳ thời bấy giờ. Trong số các tác giả ấy, Phạm Minh Kiên là nhà văn viết về lịch sử nhà Tiền Lê, Lý, Trần nhiều nhất: 05 tác phẩm, đồng thời ông cũng là nhà văn Việt Nam đầu tiên viết về Lý Công Uẩn, người anh hùng dân tộc, vị hoàng đế anh minh, người có công định đô ở Thăng Long, mở ra cả một thời đại huy hoàng của lịch sử Đại Việt.

Ngoài miền Bắc và ở cả miền Trung, tiểu thuyết lịch sử cũng đã được một số nhà văn chú ý khai thác nhưng nhìn chung, vẫn không thể vượt được phong trào này ở trong Nam. Có thể kể tên một số tác phẩm như: Quả dưa đỏ (1925) của Nguyễn Trọng Thuật, Giai nhân kỳ ngộ (1927) của Phan Chu Trinh. Phan Bội Châu viết Trùng Quang tâm sử từ 1921 nhưng bằng chữ Hán và theo truyền thống chương hồi, tác phẩm là sự kết hợp “giữa chất phi thường và tính chất bình thường, giữa sức mạnh tập thể và sức mạnh cá nhân. Họ là những con người xuất phát từ lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sôi sục chứ không đơn thuần là chỉ vì lòng trung nghĩa như trong lịch sử”. Tiếp đó, có thể kể đến tác phẩm Tiếng sấm đêm đông của Nguyễn Tử Siêu, Vua Bố Cái, Lê Đại Hành… được đánh giá: “Tiểu thuyết của ông thấm nhuần ý thức và cảm hứng dân tộc, thể hiện tấm lòng kiên trung đối với đất nước, với lịch sử dân tộc”.

Nhiều người cho rằng thời đầu thế kỷ XX thì “dã sử” không phải là lịch sử nhưng không trái nghịch lịch sử, mà nương theo, “minh họa”, viết lại. Còn “ngoại sử” lấy khung cảnh sử nhưng nhân vật là “sáng tạo” của tác giả. Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (1910) của Trương Duy Toản là “ngoại sử” về nhân vật Vương Thế Trân và Nhan Khả Ái chống lại các thế lực xấu xa, thù địch để có thể giúp Nguyễn Ánh trong công cuộc chống Tây Sơn. Oán Hồng Quần tức Phùng Kim Huê ngoại sử (1920) của Mộng Huê Lầu “ngoại sử” chuyện thời Pháp đô hộ, nhưng nhân vật Phùng Kim Huê là tưởng tượng của tác giả. Tiền Lê mạt vận (1932) của Phạm Minh Kiên cũng như Việt Nam Lê Thái Tổ (1929) của Nguyễn Chánh Sắt đều là tiểu thuyết “dã sử”. Những người viết tiểu thuyết lịch sử thời này là những vị có tinh thần dân tộc cao thấy không thể thắng ngoại xâm Pháp bằng vũ khí đã dùng sách báo làm phương tiện chống thực dân. Riêng trong Nam có phong trào viết truyện sử ta để phản ứng lại sự tràn ngập của truyện Tàu. Thời đầu thế kỷ, các tiểu thuyết lịch sử nói chung phần lớn viết theo truyện Tàu, có lớp lang chương hồi, văn hãy còn biền ngẫu, chuyển tải những luân lý căn bản và gợi ý thức dân tộc, lòng yêu nước, đề cao tinh thần anh hùng nghĩa hiệp.

Bên cạnh mảng đề tài phản ánh về những sự kiện quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, văn học giai đoạn này cũng có nhiều tác phẩm viết về nội trị. Tác giả Bùi Văn Lợi khẳng định: “đề tài nội trị cũng là đề tài được nhiều tác giả đề cập đến”. Ở miền Nam, những tác phẩm của Tân Dân Tử như Gia Long tẩu quốc phản ánh cuộc giao tranh của Nguyễn Ánh và tập đoàn Tây Sơn những năm cuối thế kỉ XVIII, Gia Long phục quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây. Ở miền Bắc, Nguyễn Tử Siêu viết Đinh Tiên Hoàng

Nhìn chung, giai đoạn này, các tác giả tập trung vào đề tài chống ngoại xâm nhiều hơn là đề tài về nội trị. Hiện tượng này có nguyên nhân lịch sử của nó, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là vì thời kì đất nước ta đang nằm trong sự đô hộ của thực dân Pháp. Nhiều phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi như Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, Việt Nam Quang phục hội… đang lần lượt diễn ra. Chính những phong trào này đã khích lệ các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử với mục đích làm sống lại lịch sử hào hùng của dân tộc, khơi gợi tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm của nhân dân ta.

Xét về quy mô, thời kì này ít có những tác phẩm quy mô lớn. Có thể kể ra những tác phẩm như: Lê Đại Hành dày 56 trang, có 32 nhân vật, Đinh Tiên Hoàng 83 trang với 63 nhân vật, Vua Bố Cái, 63 trang và 39 nhân vật, Trùng Quang tâm sử dày 140 trang dịch với gần 50 nhân vật, Việt Nam Lý Thường Kiệt dày 230 trang có 60 nhân vật, Giọt máu chung tình 250 trang, 27 nhân vật, Gia Long tẩu quốc 378 trang với 57 nhân vật…

Xét về kết cấu nghệ thuật, hầu hết các tiểu thuyết lịch sử thời kì này đều chưa thoát khỏi thi pháp của tiểu thuyết cổ điển với kết cấu chương hồi. Về kết cấu bố cục thường theo kiểu thời gian tuyến tính, đơn tính. Hầu hết thường kết thúc có hậu, ngôi kể chủ yếu là ngôi thứ ba, ngôn ngữ theo lối văn biền ngẫu…

Thời kì này, đề tài về chống xâm lược vẫn tiếp tục được phát triển, tiêu biểu có Trần Nguyễn Chiến Kỷ, Hai Bà đánh giặc, Vua Bà Triệu Ẩu, Việt Thanh chiến sử… của Nguyễn Tử Siêu. Nội dung chính của những tác phẩm này là ca ngợi những chiến công thần thánh, tôn vinh những người anh hùng của dân tộc. Có cùng chủ đề này, Nguyễn Huy Tưởng sáng tác Đêm hội Long Trì, Chu Thiên có Lê Thái Tổ, Bà Quận Mỹ

Về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX
Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Thuần

Ở đây, tiểu thuyết lịch sử làm sống lại quá khứ với những u hoài, tiếc nuối thể hiện qua Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Lan Khai có Ai lên Phố Cát, Bánh xe khứ quốc của Phan Trần Chúc… Với Lan Khai, tiểu thuyết lịch sử là chuyện tình lồng trong một khung cảnh lịch sử, với một số nhân vật xa gần với nhân vật có thật trong lịch sử. Tâm sự Lan Khai bi quan và tình yêu là động cơ của mọi biến cố và biến thiên của lịch sử. Các tác giả không có ý phản ánh trung thành lịch sử, họ đã lãng mạn hóa các nhân vật lịch sử, lãng mạn cả những hành động anh hùng, đẹp tuy vẫn phảng phất khung cảnh chương hồi của Thủy hử, Tam Quốc chí. Trước Cách mạng tháng Tám, Chu Thiên có Bóng nước Hồ Gươm, Bút nghiên,… Phan Trần Chúc có Sau lũy Trường Dục (1942), Hồi chuông Thiên Mụ (1943),… Hoa Bằng có “lịch sử ký sự” Quang Trung Nguyễn Huệ (1944)… Bên cạnh đó, các nhà văn thời kì này còn đi sâu khai thác đề tài nội trị với hàng loạt tác phẩm, tác giả mới như Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng, Ai lên Phố Cát của Lan Khai, Bà Chúa Chè, Chúa Trịnh Khải của Nguyễn Triệu Luật, v.v…

Về phương diện thi pháp, giai đoạn này cũng rất phức tạp và đa dạng. Bên cạnh một số nhà văn còn viết theo thi pháp của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc theo lối chương hồi thì một lực lượng nhà văn khác đã mạnh dạn đổi mới cách viết kiểu của những cuốn tiểu thuyết lịch sử phương Tây. Một trong những biểu hiện rõ nhất là khuynh hướng lãng mạn, nghĩa là các nhà văn đã đưa yếu tố tình yêu đôi lứa vào như một yếu tố quan trọng của tác phẩm.

Xét về mặt chất lượng tác phẩm, thời kì này đã có bước phát triển khá rõ nét cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Những tác phẩm như Việt Thanh chiến sử của Nguyễn Tử Siêu, Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng đã gây được tiếng vang lớn, được công chúng đón nhận tích cực.

Về nội dung đề tài, có thể nói càng về sau nội dung đấu tranh chống xâm lược càng giảm, thay vào đó là đề tài nội trị. Điều này có thể giải thích do chính sách kiểm duyệt quá khắt khe của thực dân Pháp. Thời kì này, tiểu thuyết lịch sử bị đàn áp thẳng tay mặc dù tất cả đều đã được kiểm duyệt trước khi in. Không phản ánh được thực tại nhiễu nhương, thối nát, các tác giả quay trở về với quá khứ, dùng chuyện đời xưa để nói chuyện đời nay. Đó cũng là cách để các tác giả bày tỏ nỗi niềm yêu nước thầm kín của mình, đồng thời cổ vũ, đánh thức lòng yêu nước của quần chúng nhân dân.

Kế thừa từ tiểu thuyết chương hồi thời trung đại, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX có bước phát triển mạnh mẽ và thu được những thành tựu mới với lực lượng sáng tác đông đảo, góp phần tạo nên sự đa dạng cho văn học giai đoạn này nói riêng, cho sự vận động phát triển của văn học dân tộc nói chung. Đây cũng là bước phát triển có tính chất tạo tiền đề cho trào lưu viết tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn sau này.

______________________________

Tài liệu tham khảo:

  1. Bùi Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, Luận án Tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
  2. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội, chi nhánh TP. Hồ Chí Minh.
  3. Nguyễn Văn Trung (1987), Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Tài liệu in Ronéo, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
  4. Nguyễn Q. Thắng (1998), Tiến trình Văn nghệ Miền Nam, Nxb Văn học,

Hà Nội.

  1. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
  2. Trần Đình Sử (2016), “Về tiểu thuyết lịch sử”,

http://khoavanhocngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van hoc/6221-ve-tieu-thuyet-lich-su.html

  1. Đoàn Lê Giang (2011), “Văn học Nam Bộ 1932-1945 một cái nhìn toàn cảnh”

http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=6753%3Avn-hc-nam-b-1932-1945-mt-cai-nhin-toan-canh

  1. Nguyễn Công Lý (2012), “Phạm Minh Kiên với tiểu thuyết lịch sử”, http://vci.vnu.edu.vn/an-pham/pham-minh-kien-voi-tieu-thuyet-lich-su.htm -------------------- Nguồn Van.vn

Chùa Mía - Thơ Hoàng Anh Tuấn

Chùa Mía - Thơ Hoàng Anh Tuấn

Baovannghe.vn- Tôi về chùa Mía chiều đông/ Chuông gieo giọt sắc giọt không xuống ngày
Lau trổ bông (2) - Thơ Nguyễn Hữu Quý

Lau trổ bông (2) - Thơ Nguyễn Hữu Quý

Baovannghe.vn- Không có cái trập trùng, cái miên man nào cả/ chỉ hơi bất ngờ mùa đông
Đối cảnh  - Thơ Nguyễn Đông Nhật

Đối cảnh - Thơ Nguyễn Đông Nhật

Baovannghe.vn- Những năm tháng ở rừng để lại trong tôi/ nhiều ánh sáng và bóng tối.
31 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự triển lãm “Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế 2025”

31 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự triển lãm “Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế 2025”

Baovannghe.vn - Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) tổ chức Lễ trao giải và khai mạc Triển lãm Cuộc thi Ảnh nghệ thuật Quốc tế lần thứ 13 năm 2025 tại Việt Nam (VN-25). Đồng chí Trần Thanh Lâm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tham dự và cắt băng khai mạc Triển lãm.
Nải chuối của Xuân Hương

Nải chuối của Xuân Hương

Baovannghe.vn - ... Bảo rằng độc giả thích nhặt lỗi thì cũng đúng nhưng có lẽ chính người viết cũng rất sợ hãi nếu có một nhầm lẫn nào đó, nhất là lỗi về những cột mốc thời gian, những sự kiện, những dữ liệu, những căn cứ, những logic....