Nói rồi lão cất giọng vang như lệnh vỡ, vừa gọi thằng cháu nội vào góc nhà lấy chai rượu nút lá chuối, vừa khệ nệ bê hai bát tiết canh đỏ sẫm, đặc sánh như bánh đúc từ trong bếp chui ra. Thằng cháu mang chai rượu ra đặt giữa bàn rồi nhanh nhảu quay vào bếp bê đĩa lòng to bự còn nghi ngút khói. Giọng lão chậm lại: Rót rượu đi mày, sáng ra cứ tý tiết canh lòng sốt, vài ly nút lá chuối là khỏe cả ngày. Ở Hà Nội chúng mày lấy đâu ra loại thứ thiệt thế này, toàn đồ mông má, lợn tăng trọng, ăn kinh bỏ mẹ....
Lão là bạn học thời phổ thông với tôi, đi bộ đội vài năm rồi về quê lấy vợ đẻ sòn sòn vài năm bốn đứa con trai, đứa nào cũng đen như cột nhà cháy, béo ục ịch, khỏe như bò mộng.
Ngồi nói chuyện với lão là phải uống rượu. Rượu vào lời ra, đông tây kim cổ lão vanh vách. Cái lý sống ở đời của lão là trời cho như thế nào thì cứ thế mà hưởng, hưởng quá cái sức của mình, khôn ngoan láu cá như rận, hơn người được dăm bữa rồi đâu lại vào đấy. Ví như cái thằng con nhà cha Khả ở giữa làng. Gia đình đang khấm khá, yên ấm vợ con, đùng một cái bán ti vi, xe máy, vay tiền chạy đi lao động tận bên Hàn Quốc. Nghe nói khi về cũng tích cóp được số vốn kha khá. Với cữ tiền ấy nếu biết tiết kiệm, an phận làm ăn bình thường cũng sướng cả đời. Đằng này tiền kiếm về chưa kịp hưởng đã mất sạch.
Thời ấy, người làng rỉ tai nhau, ai có nhiều tiền cứ đầu tư vào nuôi vạng, nuôi ngao thỏa sức hút bạc. Ở làng cũng có dăm người đầu tư nuôi vạng. Người Tàu mê vạng Thái Bình, cứ đến vụ là đánh tàu sang tận cửa Lân, cửa Lý thu mua. Cu cậu ham giàu, bao nhiêu vốn liếng dốc hết vào vạng. Được vài tháng, vạng chưa kịp thu đã gặp bão liên tiếp, tài sản mất toi gần một nửa. Số còn lại đến mùa thu hoạch cố vớt vát được một ít, ai ngờ lúc bán ra tụt gần chục giá. Vạng đang từ 25- 26 ngàn đồng một kg xuống còn 15-16 ngàn đồng một kg. Hỏi ra mới biết mấy anh Tàu chơi khăm, không biết họ mưu sâu kế độc gì mà bỏ hẳn, tiệt không thấy đánh tàu sang thu mua vạng như trước nữa. Vạng nuôi cốt bán sang Tàu, bán ở làng, ở xã thì mấy ai mua. Giờ anh Tàu không mua nữa thì ế, bao nhiêu vốn liếng bỏ ra coi như mất trắng. Vợ chồng suốt ngày cãi nhau ầm cửa ầm nhà. Nghe nói, cô vợ tháng trước tức chồng bỏ ra Hải Phòng làm ô sin, không về làng nữa...
![]() |
Tranh minh họa. Nguồn pinterest |
Thời buổi nhập nhèm, làm ăn vô tội vạ, cứ cái gì lợi, thấy kiếm được tiền là lao vào kiếm chác. Ngay cái nhà lão Chạch ở tận góc làng. Ngày trước nhà lão thuộc diện nghèo kiết xác, cả ngày không có nổi bữa cơm. Lão bị bệnh thần kinh từ bé, thân hình nửa người nửa ngợm, chân đi thập thiễng, mồm miệng suốt ngày rãi rớt ròng ròng. Trẻ con ở làng trông thấy lão thì sợ chạy mất vía. Ấy vậy mà mấy năm vừa rồi lão trở nên nổi tiếng khắp vùng. Nhà cửa xây hai tầng hoành tráng như biệt thự, bên trong nội thất cầu kỳ, toàn đồ sang trọng, nhà thờ cung cấm uy nghi, vợ con đề huề ăn diện như người thành phố. Mấy lần về làng, tôi nghe người làng kể cứ bán tín bán nghi. Hôm rồi về, lững thững ra đồng dạo chơi, nhân tiện tạt qua nhà lão thì thấy người ra vào tấp nập xe to, xe nhỏ xếp hàng nườm nượp. Hỏi ra mới biết lão làm nghề thầy cúng. Người làng đồn thổi, cách đây dăm năm, lão sang làng bên ăn giỗ, lúc về bị xe đạp tông phải vào bệnh xá xã cấp cứu. Sau khi ở bệnh xá về, lão thấy có một luồng không khí nóng rạo rực khắp người. Đêm nằm ngủ mơ có tiếng nói từ trên cao bảo rằng lão là người có căn cốt nhập thần độ thế. Từ đó lão xây điện thờ. Đúng sai đến đâu không ai dám quả quyết, nhưng nhà lão mỗi ngày đón tiếp hàng trăm lượt khách tứ xứ về cúng bái lễ lạ. Thường thì người ở làng ít đến nhà lão cúng bái cầu xin, nhưng cũng không ai chê trách gì. Việc của lão lão làm, biết đâu đời lão ngày xưa cơ cực bây giờ được thần thánh độ trì, cơ duyên hưởng phúc. Nói ra không khéo phạm thượng. Chỉ biết rằng nhà lão mỗi ngày giàu lên trông thấy, âu cũng là số trời cho lão phúc lạc vậy...
Nói đến chuyện buôn Thánh bán Thần, lão bạn tôi không tin. Lão bảo toàn bọn bịa đặt lừa đảo thiên hạ. Sống lương thiện làm ăn chỉn chu, giúp người thì người giúp ta. Kẻ lòng không sáng, tâm địa đen ngòm, làm điều sai trái thì thần linh nào chịu được. Ngay cái nhà mụ Tẽo ở cuối làng ấy. Ngày xưa nhà mụ cơm không có ăn, người quắt queo như cây sậy héo, mắt mũi lèm nhèm, chữ nghĩa bẻ đôi không biết. Vậy mà bây giờ, không biết mụ học lỏm ở đâu được bài bói toán nhì nhằng. Mà cái dân mình cũng lạ, cứ một đồn mười, mười đồn một trăm là bất kể thật hư, ùn ùn kéo đến xin quẻ rút bài. Ngôi nhà của mụ không khang trang hoành tráng như nhà lão Chạch, nhưng cũng không thua kém ai ở làng. Mà mụ cũng là con người kỳ lạ. Từ bé đến lớn không giao du chơi bời với ai. Mụ sống lủi thủi một mình. Đến tuổi dậy thì, không biết gặp được ông hàng xóm chơi bời lêu lổng nào mà làm bụng mụ phễnh ra. Năm năm liên tục mụ cho ra đời ba đứa một trai hai gái. Mụ sống khép kín, suốt ngày cửa đóng then cài nên hàng xóm láng giềng cũng không mấy ai để tâm đến. Nghe nói hai đứa con gái của mụ bị bọn xấu lừa bán sang Trung Quốc, làm vợ cho mấy thằng khựa già nghiện hút sống tận nơi hẻo lánh rừng rú gì đấy, chắc là quên quê mất quán rồi. Thằng con trai thì đi làm thuê một thời gian rồi về phụ mẹ hầu đồng bắt bóng, ăn chơi nghịch ngợm ra dáng người có tiền có của ra phết...
Làng có vài trăm nóc nhà mà đủ chuyện vui buồn. Mỗi người mỗi cảnh mỗi phận, không ai giống ai. Nhưng đáng thương nhất là nhà ông Tý bộ đội về hưu. Ông Tý đi lính từ thời chống Pháp. Vào bộ đội được học bổ túc đến lớp ba. Vì vậy mà gần bốn mươi năm nhì nhằng trong quân ngũ, phấn đấu mãi mới lên được hàm trung úy. Khi về làng, ông mang theo cô vợ gàn gàn dở dở tận miền sơn cước và bốn đứa con hai trai hai gái. Tiền bạc tích cóp bấy nhiêu năm ông bỏ ra mua khoảnh đất xây được căn nhà đổ mái bằng ba gian. Từ ngày về làng, ông suốt ngày đi làm thuê cuốc mướn lấy tiền nuôi vợ con. Người làng ai có công việc gì nặng nhọc là gọi đến ông; từ việc đào mả cho tới nhào đất nung vôi đóng gạch đến việc dọn phân chuồng, đánh bùn cho chí đào ao cuốc đất... Nhà nào có công việc nặng nhọc không nhờ đến ông là thấy không an. Vợ ông không biết việc đồng áng, suốt ngày quẩn quanh góc bếp xó nhà không chơi bời với ai. Nghe nói mụ ta uống rượu như nước lã. Cuộc sống của vợ chồng ông cũng lạ, cứ ông đi làm mỗi người một nơi thì không có chuyện gì. Nhưng về đến nhà là hai vợ chồng bỏ rượu ra uống, rồi cãi nhau ầm ĩ xóm làng. Có hôm nửa đêm vợ chồng còn uống rượu đánh nhau, vác gậy hò hét đuổi nhau chạy dọc làng. Chuyện vợ chồng ông Tý chửi đánh nhau không là chuyện lạ. Lúc đầu còn có người đến can ngăn, sau thì không ai đến nữa. Người ta bảo với nhau, vợ chồng nhà ông ấy sống như phường chèo, cười đấy rồi khóc đấy, chửi đánh nhau như cơm bữa. Nhà ông ấy một ngày không chửi đánh nhau vài lần thì dứt khoát là có chuyện chẳng lành, là có chuyện không bình thường rồi... Và đúng như lời đồn, cũng là mối họa đổ xuống gia đình ông. Ấy là vào một buổi chiều, ông Tý cao hứng trèo lên mái nhà uống rượu hóng gió đông nam. Hôm ấy ông uống nhiều, tới tận gần mười giờ đêm, vừa uống vừa nghêu ngao hát chèo. Mụ vợ gọi mấy lần ông cũng mặc. Tức mình, mụ cầm một chai rượu trèo lên nóc. Hai người vừa uống vừa hát rồi cãi nhau, vứt chai đập cốc lao vào đánh nhau chí chết. Không biết do sơ ý hay do uống rượu mà ông đẩy mụ vợ rơi từ mái nhà xuống sân gạch. Mụ vợ chỉ còn kêu lên một tiếng “ối!" rồi im bặt. Sáng ra, người làng thấy nhà ông vắng lặng như tờ thì thấy lạ. Hỏi ra mới biết mụ vợ vừa chết đêm qua. Chuyện vợ ông Tý chết cũng không gây xúc động gì ghê gớm ở làng. Nghe nói, sau khi chôn cất cho vợ xong, ông bị công an bắt giam ba bốn ngày rồi lại cho về. Người ta bảo ông gần tám mươi tuổi rồi, bắt ông làm gì cho tốn cơm tù. Vợ ông chết âu cũng là cái số chứ ông có chủ ý giết vợ đâu. Từ ngày vợ ông chết, xóm làng cũng bình yên hơn, còn với ông thì người làng ít nhìn thấy mặt. Dân làng xì xào, từ ngày vợ mất ông Tý tuyệt nhiên không uống rượu nữa, thời gian sau thì lú lẫn, giờ chỉ đối diện với bốn bức tường, tuyệt không thấy bước chân ra đầu ngõ...
Chuyện với lão bạn tôi thì cả ngày không hết. Tính tình lão thế, cứ có chén rượu là không dứt ra được. Lão bảo, - mày là thằng chữ nghĩa, thích thì về làng sống vài tháng rồi lên Hà Nội viết cả đời lấy tiền nuôi vợ con. Chuyện gì bây giờ ở làng cũng có cả. Nhưng mệt nhất là đám choai choai bây giờ, học hành thì bê bết mà suốt ngày chỉ chui đầu vào mấy quán điện tử với karaoke. Trai gái chưa sạch máu đầu ăn nằm với nhau rồi trốn cha mẹ bỏ làng biệt xứ. Người lớn tuổi cũng chẳng ra làm sao, lo cho con cháu ăn học, dạy dỗ làm người thì ít mà chỉ lo xây từ đường, nhà thờ, lăng tẩm cho thật cao to hoành tráng. Dòng họ này thi với dòng họ kia, kém nhau một tý là không chịu được, chỉ khổ con cháu còng lưng đóng góp. Ai đời có dòng họ một năm thu đến ba bốn lần tiền, hết sửa từ đường đến xây lăng tẩm rồi lễ lạt cúng giỗ. Có hộ gia đình cả năm nhận cấy dăm sào ruộng, thu được vài triệu bạc thì tiền đóng cho dòng họ mất quá nửa, tiền ăn không đủ thì xây lăng tẩm mà làm gì? Vậy tin mà người ta vẫn cứ xây, to vậy chứ to nữa thì cái đống gạch ấy có giúp gì cho con cháu mở mày mở mặt đâu?... Mà dân làng nói vậy thôi, mấy năm trước kinh tế có khấm khá lên đôi chút, nhưng giờ lại kém đi rồi. Ấy là chưa kể có vài sào ruộng, mỗi vụ kiếm vài tạ thóc vừa đóng góp cho dòng họ vừa nộp đủ các khoản thuế má quĩ này quĩ nọ thì sống bằng gì. Thế nên dân bây giờ chán làm nông nghiệp, nhiều gia đình bỏ ruộng. Vợ chồng con cái đi tứ xứ làm ăn. Làng bây giờ cũng vắng người, nhất là thanh niên, đi xa làm ăn hết rồi! Mà không đi làm ăn thì lấy tiền đâu mà sống. Thời buổi cái gì cũng tiền. Đủ cách xoay xở mà cuộc sống cũng không khá lên là mấy. Người tử tế, khỏe mạnh, lao động bằng mồ hôi nước mắt chân chính thì không đủ ăn, đứa nhố nhăng lừa bịp như cái nhà lão Chạch với mụ Tẽo thì thiên hạ mang tiền đến cung phụng. Thật là thời buổi đảo điên, thật giả lộn tùng phèo. Chán thật!...
Chia tay ông bạn già, tôi lang thang ra cánh đồng làng. Trời đã nhá nhem tối mà dân đi làm đồng vẫn chưa về. Phía xa, ngoài rặng phi lao chắn sóng là biển. Tiếng sóng biển ở quê tôi như từ ngàn đời nay vẫn thế: U trầm, nặng nhọc trĩu xuống từng mái nhà đời này qua đời khác. Cuộc sống nhọc nhằn, lam lũ in trên gương mặt mỗi con người, mỗi cuộc đời, mỗi số phận không ai giống ai. Nhưng với tôi, dù năm tháng trôi qua, dù có bao biến đổi lạ kỳ, thì những ký ức về làng vẫn đang còn đó, như một phần máu thịt rần rật chảy dọc cuộc đời...