Sinh năm 1952, từng đi bộ đội, tham gia thanh niên xung phong, giảng dạy trong nhà trường phổ thông, học viên khóa đầu Trường Viết văn Nguyễn Du, rồi chuyển sang làm báo, làm biên tập viên Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu. Đó là đôi nét về nhà thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, tác giả của hai tập thơ Bùa lá và Miền hoa dại. Trong đời sống và trong thơ, bà luôn lặng lẽ, sự lặng lẽ ấy đem tới những bài thơ, những câu thơ “trong và buốt như nước mắt” như nhận xét của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Tiếng thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh trước hết là tiếng lòng của người phụ nữ đi đến tận cùng tình yêu, khao khát sự chân thành, tử tế, không dối lừa…
Nhà thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh |
“Năm, mười, mười lăm, hai mươi/ em mỏi mòn đi tìm/ năm năm đợi/ mười năm đợi/ hai mươi năm ngóng đợi…/ Bằn bặt sân trăng từ đấy/ đi hết một vòng đời/ trò chơi vẫn chưa xong…”. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nhà thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh đọc thơ, một bài thơ khắc khoải về cuộc trốn tìm của những kẻ dự phần vào tình yêu. Người đàn ông trong vai người đi trốn, trốn quá kỹ trở thành biệt tăm. Người phụ nữ trong vai người đi tìm, tìm hoài, đợi hoài, đợi hết cả cuộc đời mà trò chơi chưa kết thúc. Nhiều năm trôi qua, tôi vẫn nhớ giọng đọc thơ của bà lúc ấy, nhỏ nhẹ, đủ nghe. Từng câu thơ da diết thoát ra từ tâm trí. Đến đoạn cuối, bà đưa tay đặt lên ngực trái. Một cảm giác đau nhói trong tôi.
Cũng từ lần ấy, tôi nhận ra mình đã là độc giả của bà từ thời bé xíu, từng đọc đi đọc lại Cây hoàng liên rễ đắng trong tuyển tập thơ và truyện ngắn chọn lọc về Trường Sơn, viết về mối tình của đôi trai gái rời giảng đường đại học xung phong vào chiến trường. Mo-tip truyện ngắn là vậy, nhưng nội dung và giọng điệu kể truyện cũng như tính cách nhân vật rất khác biệt so với các truyện ngắn viết cùng thời, cả phần kết không trọn vẹn cũng gợi cho người đọc cảm giác tiếc nuối, đợi chờ.
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh khởi đầu nghiệp viết với những thành công từ văn xuôi như thế, giải Nhất báo Văn nghệ năm 1974-1975, từng tham gia thanh niên xung phong, từng đi dạy học, rồi trở thành học viên khóa đầu Trường Viết văn Nguyễn Du, sau đó chuyển hẳn sang làm báo làm biên tập. Ngoài 50 tuổi, bà mới in tập thơ Bùa lá. Cũng năm đó, năm 2006, bà in tập thứ hai Miền hoa dại. Đến nay, bà vẫn làm thơ, bản thảo để đâu đó, trên bàn viết, trong máy vi tính, hay kẹp giữa những cuốn sách khác. Bà ít khi gửi thơ đăng báo, ngại những cuộc trò chuyện phỏng vấn có tính khai thác đời tư. Bà cũng ít nói về mình, nếu có, thì đó là những chuyện thường ngày, chuyện cơm nước chợ búa, chuyện về quê, chuyện thể dục đi bộ của những người về hưu. Vậy nên, muốn hiểu về một Nguyễn Thị Đạo Tĩnh sau vẻ ngoài giản dị bình thản kia, phải đọc thơ bà.
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh thuộc thế hệ các nhà thơ 5X trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, thơ vẫn mang nét truyền thống như các đàn chị thế hệ 4X nhưng bắt đầu tung tẩy hơn, thoải mái hơn trong giọng điệu, nhịp điệu. Bằng chứng là bà luôn đằm thắm với thể lục bát, nhẹ nhõm với thơ 5 chữ 6 chữ, đầy nhạc tính với thơ 7 chữ 8 chữ, song vẫn mở ra linh hoạt với thơ tự do, thơ văn xuôi, đôi lúc lại nghiêm nhặt khép lòng trong vài dòng ngắn ngủi. Bà viết không nhiều. Có lẽ lúc sung sức nhất, giàu cảm hứng nhất, bà vẫn không lạm dụng chữ. Thơ ùa ra khi năng lượng đã đủ đầy, thậm chí cần giải phóng, để bớt đi những bộn bề, bớt đi niềm đau: Tháng bảy/ ngày rằm/ nơi Cửa Phật/ những chiếc lồng tre/ nhốt đầy sẻ đồng/ Người đi lễ Chùa/ mở lòng/tích đức/ ba nghìn đồng một con/ ba nghìn đồng/ cho một lần làm phúc/ bầy sẻ đồng/ tíu tít/ bay đi/ dưới gốc đại/ từ bi/ không chạy được/ những chiếc lồng/ lim dim ngủ mê/ Tôi đưa tay lên ngực/ nơi con tim bị lưu đày/ ô hay/ sao không ai/ phóng sinh! (Phóng sinh)
Làm thơ để phóng sinh con tim bị lưu đày - Đó phải chăng cũng là một phần thuộc về ẩn ức của người làm thơ, trong đó có Nguyễn Thị Đạo Tĩnh. Bà vốn kín tiếng, nhưng những ai sống cùng thời và thân thiết với bà đều biết ít nhiều về mối tình sâu nặng mà bà đã dành hết thời tuổi trẻ để hướng về, chờ đợi, cả tin, rồi thất vọng “đi hết một vòng đời/ trò chơi vẫn chưa xong”. Và có lẽ, chính cái trò chơi trốn tìm dang dở ấy đã đưa bà đến với thơ, dùng thơ để phóng sinh trái tim mình, nặn cho nỗi đau thoát hết ra để tái tạo sinh lực, rồi lại nhận về nỗi đau, lại ngụp lặn trong mê man cơn sốt: Chao ơi nếu được về chốn cũ/ em sẽ lại đi tìm/ sẽ lại yêu anh/ nghẹn ngào đắng chát… (Cho một màu hoa)
Đâu chỉ là thơ. Đó còn là tiếng nấc nghẹn trong nhói đau lồng ngực, là nước mắt nhòa vào dòng chữ run rẩy chát đắng nhưng vẫn chưa thôi niềm hy vọng. Dại khờ quá chăng? Nông nổi quá chăng? Không phải. Người phụ nữ ấy đã mất quá nhiều thời gian để trải nghiệm, để thấm thía những cả tin. Người phụ nữ ấy đã có bao nhiêu đêm “nửa giường nửa chiếu nửa chăn/ hoang vu nửa phần trái đất”, từng cặm cụi “vá lại đời mình/ vá lại bóng đêm đã hai mươi năm/ rách từng mảnh trống”, từng không dám ngả lưng vì sợ đè vào, sợ làm đau chiếc bóng vốn cô đơn của mình, hẳn bà quá thấm thía niềm đau, đau đến tê dại, đau đến mức nhận ra tình thế hiểm nguy của mình, rằng nếu cố dấn thêm bước nữa sẽ sa vào vực thẳm. Thế hệ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh là thế hệ bước ra khỏi chiến tranh khi mới ngoài hai mươi tuổi, lòng còn bao hăm hở, nhiệt thành. Cuộc sống thời bình với muôn ngàn lối rẽ, những quan niệm, những lý tưởng đạo đức truyền thống, những điều tưởng là chân lý, là nguyên tắc là hành trang sống đã bắt đầu thay đổi, rạn nứt. Sự chống chếnh bởi mất điểm tựa tinh thần đã diễn ra nơi những tâm hồn nhạy cảm, dễ tổn thương: Nhưng mẹ ơi/ Chúng ta đâu biết/ Câu thần chú xưa/ Giờ đã hết nhiệm màu/ Không biết lấy gì chở che/ Không biết lấy gì làm chỗ vịn/ Con vấp ngã. (Của hồi môn)
Cuộc sống vẫn chảy trôi, ngày vẫn hướng về phía trước. Để tồn tại, dù là tồn tại đi cùng niềm đau và thất vọng thì bản thể vẫn cần phải tái tạo, cần nạp thêm năng lượng. Vậy nên không có cách nào khác là phải quay về đời thường, đối diện và chấp nhận hiện thực cũng như biết quý trọng chính mình: Buồn tình ngồi ngắm trăng suông/ Chẳng ai thương đến thì thương lấy mình/ Lá rơi lạc xuống sân đình/ Bùa yêu tôi thả - cho mình tôi… yêu. (Bùa lá)
Thực tế có không ít người phụ nữ khi đổ vỡ nhân duyên, họ trở nên yếu đuối, quỵ lụy, van xin tình thương. Có người thất vọng, phủ định, và trở nên chai lỳ giác quan, cảm xúc. Còn người phụ nữ trong thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh thì khác. Yêu đắm đuối. Đợi chờ hết lòng. Nhưng khi đã nhận diện sự việc và con người thì đầu óc lại trở nên sáng rõ. Ở bài thơ Bốn người, bà viết tặng những người đàn bà bất hạnh: Người đuổi bắt tình yêu, người cả tin mà đánh mất, người lập mưu đánh cắp, nhưng họ đều giống nhau ở chỗ: Cả ba người nào ai hơn ai/ họ lặng im giấu tiếng thở dài/ chỉ người đàn ông/ nhìn trời … khe khẽ… hát.
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh viết về đàn ông: “anh/ vầng trăng mọc từ đáy nước/ em ngụp lặn suốt đời/ không tròn một vòng ôm”. Vầng trăng mọc từ đáy nước chỉ là bóng hình hư ảo, làm sao tìm được vớt được, chưa thấy đâu có khi bị chết đuối chết lạnh rồi. Biết là thế để không phải khổ sở vì ham muốn sở hữu mà hãy tập cho mình sức chịu đựng, bình thản mỉm cười bước qua dối gian. Không ít lần, niềm khát khao hạnh phúc cứ bùng lên, khiến người phụ nữ trong thơ bà chấp nhận cả những cảm giác “cứ vờ như vẫn có anh”, “vờ đang bên anh rảo bước” để nhìn đời, để thu nhận từ đời sống những sắc màu đẹp đẽ của nó.
Hoa cúc sẽ chẳng vàng nếu không có mùa thu – nhưng cũng vì mùa thu mà tàn lụi/ Anh đến cho em quá nhiều nông nổi – khi anh đi tất cả vẫn tràn đầy/ Em – người đàn bà được sinh ra từ những đám mây. (Không đề)
Người đàn bà được sinh ra từ những đám mây sẽ chẳng thuộc về nơi nào cố định, có thể lơ lửng ở tầng thấp, có thể ở trên cao, rồi ngày nào đó tan thành nước. Biết thế và chấp nhận sống đúng với con người mình, như những đóa quỳ vàng lặng lẽ “vắt kiệt mình trong cơn khát đam mê”, rực cháy một miền biên ải “gió và mưa chẳng thể nào tắt được/ cái màu tươi nguyên sơ”. Nguyễn Thị Đạo Tĩnh cũng viết về hoa hồng, nhưng bà viết nhiều hơn và viết hay hơn về hoa dại, những loài hoa “chẳng cần phải đắn đo/ nở cho ai/ nở để làm gì/ chọn cách nở ra sao” mà cứ cần mẫn, nhiệt thành bung tỏa hết những gì mình có giữa đất trời bao la khoáng đạt, giữa nắng gió nhiệt thành nồng nã. Trước miền hoa dại ấy, người phụ nữ trong thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh hơn một lần ao ước muốn được hòa vào làm một nhánh dại không tên, để tự do bừng nở, không phải e ngại, không phải né tránh, không phải chiều theo lý lẽ người đời, dẫu biết sống như thế sẽ nhận về không ít thiệt thòi.
Cùng với hình ảnh hoa dại, thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh hay nhắc đến “màu vàng”, “tháng ba” và “tháng bảy”. Tháng ba của xuân thì, của ký ức đẹp đẽ. Tháng bảy mưa ngâu đi cùng mất mát. Màu vàng dâng hiến, cháy bỏng, màu vàng mọc gai trong tim: Tháng bảy chưa về lòng đã mưa ngâu/ Hoa Kim phượng có còn đắm đuối?/ cái màu vàng như trêu/ cái màu vàng như gọi/ cái màu vàng mọc gai trong tim!... (Cho một màu hoa)
Dù lặng lẽ sống lặng lẽ viết, nhưng Nguyễn Thị Đạo Tĩnh có nhiều bạn đọc, bạn thơ đồng cảm. Điều này cực quý, bởi nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa, thơ đang gặp phải sự thờ ơ, lãnh đạm của bạn đọc trên phạm vi toàn cầu, “nhưng với thơ của Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, dường như ta lại không thể thờ ơ được, bởi thơ bà là hiện thân của một nỗi đau”. Bà đã đi từ nỗi đau của chính mình để cảm nhận những nỗi đau khác, nỗi đau của người đàn bà vì chờ đợi mà hóa đá, vì chiến tranh mà mất mát lỡ dở, vì cuộc đời xô giạt mà đói nghèo vất vả, vì thất vọng mà trở thành cô độc... Bà không thuộc về số đông, không hòa theo tràng vỗ tay hoan hỉ, chỉ lặng lẽ đứng đằng sau sân khấu, thấu hiểu giọt nước mắt của nhân vật khi cánh màn nhung đã khép. Thơ Nguyễn Thị Đạo Tĩnh là nỗi đau đã được lắng lọc, thanh khiết, khiến người đọc rung cảm nhưng không bi lụy, không khiếp nhược mà trở nên thanh thản hơn, như thể rũ được bụi nhân sinh để nhẹ lòng bước tiếp, nhẹ lòng mỉm cười đi bên buồn vui. Mỗi tứ thơ gieo từng giọt nước mát lành, thấm vào lòng đất để từ đó góp phần tạo sinh mạch nước ngầm, kết nối với những dòng suối dòng sông: Trên cánh đồng tình yêu của anh/ Người ta đã hái lượm và mang đi/ Những gì có thể/ Chỉ còn lại/ Bời bời gốc rạ/ Bời bời bão gió/ Bời bời cỏ hoang…/ Con chim xanh vẫn cặm cụi mót từng hạt nhỏ… (Trên cánh đồng cỏ hoang)
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh là thế. Dù bời bời bão gió, bà vẫn là con chim xanh trên cánh đồng cỏ hoang, cặm cụi nhặt từng hạt nhỏ, và hát lên khúc ca về tình yêu sự sống, góp phần tái sinh nhân gian này.
Nguồn Văn nghệ số 16/2020