Diễn đàn lý luận

Cuộc đổi mới văn học 1975-2025

Trần Anh Thái
Lý luận phê bình 09:26 | 10/10/2025
Baovannghe.vn - Sau năm 1975, đời sống văn học Việt Nam có những biến động mạnh mẽ, khác biệt so với thời kỳ chiến tranh và các thời kỳ trước đó. Sự khác biệt này có nguồn gốc sâu xa từ điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể.
aa

Bắt đầu có lẽ phải kể đến sự khô cứng, sáo mòn của mô hình kinh tế văn hóa – xã hội tập trung, quan liêu bao cấp đã thủ tiêu và bóp nghẹt mọi mặt đời sống xã hội. Chính từ trong bế tắc cùng tận này đã nảy sinh mầm mống giải thoát khỏi những trói buộc khuôn mẫu, những áp đặt thô sơ, phi lý, hướng tới đổi mới toàn diện về kinh tế – xã hội mà nội dung cốt lõi là nền kinh tế thị trường. Đồng thời với giai đoạn này là sự “cởi trói” trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Chủ trương “cởi trói” (1986) thực sự là cột mốc quan trọng đánh dấu đổi mới tư duy, đổi mới cách nhìn, khuyến khích nói thẳng nói thật, tạo cơ hội cho xu hướng dân chủ hóa, phát triển đa chiều, rộng mở của văn học nghệ thuật.

Cuộc đổi mới văn học 1975-2025
Nhà thơ Trần Anh Thái

I.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, văn học được coi là vũ khí của cách mạng, tiếng nói của tư tưởng, nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ đứng ở mũi nhọn cuộc chiến đấu của nhân dân. Trong bài: “Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi” có câu: “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Đó là quan niệm khẳng định thái độ tư tưởng cách mạng, đó cũng chính là tinh thần chiến đấu coi văn chương như một thứ vũ khí, nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Đây cũng là yêu cầu của thời đại lúc bấy giờ. Trong khi nước sôi lửa bỏng, đất nước chưa độc lập, nhân dân còn lầm than thì cần phải coi trọng tính chiến đấu của thơ, đề cao vai trò và tư cách công dân của nhà thơ. Vì vậy, văn học trở thành tiếng nói của đại chúng và cách mạng, tiếng nói chung của cộng đồng, dân tộc. Cuộc chiến đấu chống ngoại xâm đòi hỏi nhà thơ phải “Cao giọng hát những bài ca chính khí” (Sóng Hồng), “Thơ là súng là gươm” (Lê Anh Xuân). Sứ mệnh nhà thơ được xác định “…đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên)… Tinh thần ấy đã trở thành động lực thôi thúc đội quân văn học nghệ thuật viết nên những “vần thắng vút lên cao”… Một đội ngũ nhà văn, nhà thơ chiến sĩ sẵn sàng cống hiến tất cả tài năng và tâm huyết thậm chí cả tính mạng của mình cho văn học cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Văn học đổi mới ra đời chấm dứt thời kỳ độc tôn chân lý, độc tôn tư tưởng hướng tới tinh thần dân chủ, bình đẳng. Văn học đổi mới không tìm cách phủ định quá khứ, bởi quá khứ là hiển nhiên. Ngọn núi sinh ra nó đã có đó, bất di bất dịch, không thay đổi được. Bởi vậy đổi mới chỉ đi tìm cái mới, tìm cách làm ra cái mới, vì cái cũ không còn phù hợp, bạn đọc không thích nữa, nhà văn nhà thơ chỉ còn cách: “…xếp lại hành trang áo xống/ Ta nhập cùng gió mới qua sông”, “Nào dép giày hành trang ký ức/ Khúc bi ca lặp lại cũ mèm/ Ta sẽ ngự trên đỉnh đồi chớm sáng/ Thức dậy thôi giấc ngủ yếu mèm” (Trần Anh Thái).

Nhưng đổi mới thế nào, đổi mới cái gì, bắt đầu từ đâu… lại là một câu hỏi lớn đối với văn học những năm sau 1986. Vào những năm tháng cuối đời, chính Chế Lan Viên đã từng phải day dứt nhiều về thiên chức của nhà thơ. Sau những vinh quang và cay đắng của đời mình, ông nhìn nhận lại, tự chất vấn và tự thức tỉnh: “Con người ngẩng lên trời làm triết học/ Ta là ai? Về đâu? Hạt móc/ Là ta chăng? Dòng sông là ta chăng? Tiếng khóc/ Là ta chăng? Vì sao lạc phương trời/ Là ta chăng? Ta chưa kịp trả lời/ Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối/ Cậu bé chơi tùng dinh chợt già trăm tuổi/ Câu hỏi thuở bé thơ, miệng huyệt trả lời (Hỏi? Đáp?).

Vào thời kỳ đầu của đổi mới, điều kiện tiên quyết để văn học phát triển chính là cái nhìn mới, quan niệm mới. Vì có cái nhìn mới nên người viết rốt ráo tìm kiếm cái mới, nhanh chóng nắm bắt kịp thời các thông tin đa chiều, tiếp thu một cách có chọn lọc nền thơ ca tiên tiến với rất nhiều trào lưu, trường phái trên thế giới. Những người khởi đầu cho đổi mới đối diện với muôn vàn khó khăn trước con đường chưa được khai mở, đầy rẫy rào cản, thách thức. Nhưng không đổi mới sẽ không còn bạn đọc. Bởi bạn đọc khi ấy có rất nhiều cơ hội lựa chọn, tự do thưởng lãm muôn vàn món ăn tinh thần khác lạ từ Âu sang Mỹ mà chủ yếu là những tác phẩm văn học đỉnh cao, thuộc đủ loại trường phái nghệ thuật khác nhau trên thế giới, được dịch đưa vào Việt Nam.

Vì vậy bạn đọc có quyền đòi hỏi nhà văn, nhà thơ Việt Nam phải viết ra những tác phẩm chất lượng cao, đòi hỏi người viết phải là chính mình, có tiếng nói độc lập, chính trực, riêng biệt. Mỗi tác phẩm phải là câu hỏi đặt ra cho người đọc về thân phận con người, về chính mình và nhân loại. Các tác phẩm như vậy thường mang tính tranh biện hơn là độc thoại, là cuộc chất vấn lương tâm và mỹ cảm của người đọc. Nó có nhiệm vụ mở đường và khơi gợi bạn đọc cùng suy nghĩ về mọi vấn đề thuộc về đời sống con người.

Nếu văn học thời chiến là những tiếng nói lớn, vang to và thống nhất, được định hướng “Bay theo đường dân tộc đang bay” với niềm kiêu hãnh “Lịch sử chọn ta làm điểm tựa”, “Những ngày ta sống là những ngày đẹp nhất”… là tư tưởng chung, là lý tưởng của cả cộng đồng, thì đổi mới, những câu thơ kiểu như vậy không còn nữa. Thay vào đó là những tiếng nói của tâm trạng, của tự do cá nhân không còn định hướng. Văn học không đứng ở đỉnh cao chói lọi mà lặng lẽ trở về mặt đất, trở về với thực tại cuộc sống đời thường đang còn bừa bộn, ngổn ngang muôn nỗi. Nó phản ánh hiện thực một cách dũng cảm, trung thực, thẳng thắn không chùn bước và không khuất phục trước mọi áp đặt, cản trở. Nó dám nói lên những điều mà văn học thời chiến không được nói, không dám nói và chưa từng biết đến.

Bằng cách nhìn mới những nhà văn, nhà thơ đổi mới nhiệt tình say mê đi vào tận cùng cuộc sống, tìm kiếm khai thác triệt để mọi ngóc ngách của thực tại, khám phá mọi mối quan hệ đa chiều, phức tạp còn chìm sâu bên trong cuộc sống. Đó là những vấn đề thầm kín riêng tư của thân phận con người: niềm vui – nỗi đau, hạnh phúc – bất hạnh, niềm hoan ca và giọt nước mắt đắng cay… Giữa muôn mặt đời thường ấy, hơn lúc nào hết nhà văn, nhà thơ có cơ hội để viết lên những tác phẩm của riêng mình, theo ý mình, là tư tưởng cá nhân của người viết.

Rõ ràng cái nhìn mới đã giúp nhà văn, nhà thơ được tự do khám phá mọi góc cạnh cuộc sống, tự do lựa chọn cách viết, dám nói lên ý kiến cá nhân… Sự mới mẻ này thể hiện rất rõ trong các sáng tác thơ của Chế Lan Viên, Bùi Giáng, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm…, của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… trong văn xuôi. Cuối những năm tám mươi kéo dài sang những năm 1990 tinh thần đổi mới tiếp tục được khẳng định, ngày càng triệt để hơn ở những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Hướng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Trí Huân, Lê Minh Khuê, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Nguyễn Bình Phương, Trung Trung Đỉnh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ… Đội ngũ nhà thơ chống Mỹ từ Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu, Trúc Thông, Ý Nhi, đến Trần Đăng Khoa, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Anh Ngọc, Vương Trọng, Trần Nhuận Minh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Thi Hoàng, Y Phương, Hoàng Trần Cương… cũng lần lượt cho ra đời những tác phẩm mới mẻ, mang bản sắc riêng biệt của giai đoạn 1975-1986 kéo dài sang những năm 1990.

Thế hệ nhà thơ viết sau năm 1975 ra đời muộn nhưng đã ý thức rất rõ rằng, tất cả đã thay đổi, đòi hỏi sự dấn thân và những nỗ lực cá nhân. Đó là Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Trần Anh Thái, Đỗ Minh Tuấn, Trần Quang Quý, Trần Hùng, Inrasara, Đặng Huy Giang, Mai Văn Phấn, Dương Thuấn, Nguyễn Linh Khiếu, Trần Quang Đạo, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lê Thị Kim, Ánh Huỳnh, Trương Nam Hương, Mai Quỳnh Nam, Trương Đăng Dung, Lê Minh Quốc, Lê Mạnh Tuấn, Nguyễn Thành Phong, Đỗ Trọng Khơi, Phan Hoàng, Hữu Việt, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Thành Phong, Giáng Vân, Tuyết Nga, Thu Nguyệt… Đó là thời kỳ nở rộ của các phong cách, bút pháp; người viết thỏa sức phô diễn mọi cá tính sáng tạo với rất nhiều tìm tòi, thể nghiệm mới mẻ của văn học đổi mới 50 năm qua.

II.

Ở khía cạnh khác, con người sau chiến tranh trở về với cuộc sống thường nhật phải đối mặt với muôn vàn khó khăn phức tạp. Niềm vui có nhưng cũng không ít đau thương, mất mát, thậm chí cả bi kịch… Thực tế này đã thôi thúc mỗi cá nhân thức tỉnh, nhìn nhận lại bản thân, soi chiếu sang người khác và cuộc sống xung quanh. Vấn đề cá nhân và thân phận con người được đặt ra như một trong những nội dung cốt lõi của văn học đổi mới. Trong thực tế, nếu tác phẩm văn học không cá nhân hóa triệt để thì không thể đạt được tự do sáng tạo.

Về nội dung này, với góc nhìn nhân bản, nhân văn, cách nay gần 30 năm, Báo Quân đội nhân dân có tổ chức cuộc tọa đàm với chủ đề: “Thơ đi về đâu?”. Có người bảo: Thơ đương nhiên là đi về phía con người, sao phải hỏi?… Thơ đi về phía con người – hiển nhiên là thế, nhưng vấn đề cuộc tọa đàm đặt ra là con người nào? Con người cộng đồng, con người chung chung hay con người cá nhân, con người cá tính, có thân phận bằng xương bằng thịt cụ thể? Tại sao lại cần giải đáp câu hỏi này. Vì vào thời điểm đó, vẫn còn không ít tiếng nói nhân danh cộng đồng, nhân danh lý tưởng chung chung để phê phán, cản trở đổi mới. Sự độc lập nhân cách của cá nhân bị đe dọa, bóp méo… Đã đến lúc cần phải chấm dứt những quan niệm này. Mạnh mẽ phê phán, bác bỏ ý kiến nhân danh cộng đồng, nhân danh lý tưởng mà bỏ qua nỗi đau cá nhân, nỗi đau của mỗi con người, của thân phận con người.

Bằng cách nhìn này, cuộc tọa đàm khuyến khích người viết mạnh dạn đổi mới, khám phá nhân tính ở chiều sâu. Mong muốn có nhiều tác phẩm ra đời có cái nhìn khác, sâu sắc, nhân bản và toàn diện hơn… Con người phải được soi chiếu từ nhiều góc độ với những mâu thuẫn giằng xé nội tâm, niềm vui và nỗi đau, hạnh phúc và bất hạnh. Nhà thơ bằng tất cả niềm tin và tình yêu thương con người luôn thường trực một nỗi day dứt, sự cảm thông, chia sẻ với những thân phận nhỏ bé, yếu mềm để cùng họ vượt lên trước cuộc sống khổ đau, nặng nhọc của kiếp người như cách nói của Chế Lan Viên : “Trộn vào dân/ Vào bùn/ Vào ở trong các cực nhọc/ Anh đừng là viên ngọc/ Mà là viên sỏi, cục gạch lẫn trộn vào cỏ rác/ Hiểu cho hết cái đau của cuộc đời/ Nghe tiếng cười của trẻ con nheo nhóc/ Điệu hát những bà mẹ xanh xao/ Rồi lặng lẽ cuốc đào/ Miếng đất thơ trong vườn anh” (Chế Lan Viên)…

Con người trong văn học đổi mới còn được mở rộng ra các mối quan hệ ở mọi tầng nấc xã hội. Con người của thực tại và con người trong chiến tranh; con người gia đình, con người xã hội; con người dân tộc và con người nhân loại… con người của niềm tin khát vọng và nỗi tuyệt vọng, cao cả và thấp hèn, tốt và xấu; thiên thần và quỷ dữ… Càng về sau đổi mới, con người xuất hiện không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân mà nó hướng sang con người bản thể, con người tự nhiên, con người dục tính, vô thức…

Khác hẳn với kiểu con người mang vẻ đẹp lấp lánh của lý tưởng cộng đồng kiểu như: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” hay “Những đồng chí lấy thân mình làm giá súng/ Đầu bịt lỗ châu mai/ Băng mình qua núi thép gai/ Ào ào vũ bão/ Những đồng chí chèn lưng cứu pháo/ Nát thân, nhắm mắt, còn ôm…” (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu) và “Đứng vững chãi bốn nghìn năm sừng sững/ Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa/ Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng/ Sống hiên ngang và nhân ái hài hòa” rồi: “Và nơi đâu? Trên trái đất này/ Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay/ Sống chết từng ngày mưa bom bão đạn/ Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Văn học đổi mới cũng không có cái tư thế hiên ngang, phong thái ung dung, tinh thần lạc quan, dũng cảm của người lính lái xe giữa bom rơi đạn nổ của Phạm Tiến Duật: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật bom rơi kính vỡ đi rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.

Văn học đổi mới cố gắng đi vào những tầng sâu kín nhất, khao khát hướng tới những vấn đề cốt lõi của đời sống con người. Những tác phẩm như thế thường mang tính phản tỉnh cao. Nó tự phê phán và không ngần ngại bóc trần sự thật, dám viết lên những điều mà văn học trước đó chưa từng được biết đến, tất cả chỉ với mục tiêu nâng đỡ con người, hướng con người tới những điều tốt đẹp…

Có thể nói, văn học Việt Nam sau 50 năm đã tiến một bước dài trên con đường hiện đại hóa để từng bước hội nhập vào nền văn học thế giới. Có lẽ chưa một thời kỳ nào trong lịch sử, người viết lại được tự do biểu hiện mọi suy nghĩ của mình như giai đoạn đổi mới vừa qua. Sự đổi mới này diễn ra sôi động, sâu rộng, mạnh mẽ, quyết liệt với muôn vàn cách thức biểu hiện phong phú, đa dạng nhằm khai thác tối đa chiều sâu tâm linh và những góc khuất trong sâu thẳm tâm hồn con người. Văn học đi vào từng ngóc ngách đời thường; cất lên tiếng hát của nỗi buồn thân phận, những khát vọng lớn lao và nỗi đau mất mát, bế tắc tuyệt vọng trước bao giông gió cuộc đời với rất nhiều cung bậc, cảm thức mới lạ…

Tất cả những nỗ lực này đều nhằm mục đích tôn vinh nghệ thuật, đưa văn học trở lại với vị trí đúng như nó có, trở lại với cuộc sống đời thường, với công chúng, hướng tới cái thiện, cái đẹp, cái cao cả trong quá trình hoàn thiện nhân cách của con người hiện đại hôm nay và mai sau…

---------------------

Nài viết được khai thác từ tham luận hội thảo tổng kết “Văn học Việt Nam sau năm 1975 – thành tựu, vấn đề và triển vọng”

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn