![]() |
| Nhà văn Mai Văn Hoan tham luận tại Hội thảo tổng kết văn học Việt Nam sau năm 1975 với chủ đề “Những vấn đề đặt ra và triển vọng phát triển văn học”. Hội Nhà văn VN tổ chức ngày 26/9/2025, tại TP. Đà Nẵng. |
Nhìn tổng quát lịch sử phát triển văn học nước nhà từ xưa đến nay, dễ dàng nhận thấy: số người đọc và tham gia sáng tác thi ca nhiều hơn văn xuôi, thành tựu thi ca nổi trội hơn văn xuôi. Nước ta chưa có tác giả văn xuôi nào được công nhận Danh nhân văn hóa thế giới, còn thơ thì có đến 5 vị, gồm Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh. Việt Nam vì thế được xem là “xứ sở của thi ca”. Tình yêu thi ca của người Việt đã ngấm vào máu, vào hồn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Cả hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, việc văn học cổ nước ta chịu ảnh hưởng sâu rộng văn học cổ Trung Hoa là điều đương nhiên. Nhưng cha ông ta vốn có ý thức dân tộc, tự lập tự cường nên tiếp thu có chọn lọc và rất sáng tạo. Điều đó làm nên nét tương đồng và dị biệt giữa văn học cổ Trung Hoa và văn học cổ Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi (1380 – 1442) một thời gian, cha ông ta đã sáng chế ra chữ Nôm. Đây là bước đột phá đầu tiên về chữ viết, đặt nền móng cho sự đổi mới văn chương nước nhà.
Sau Nguyễn Trãi 3 thế kỉ, cha ông ta sáng chế các thể mới: lục bát, song thất lục bát, truyện thơ… làm bệ phóng cho dòng văn chương chữ Nôm phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, mà đỉnh cao là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du và thơ Hồ Xuân Hương. Có thể xem đây là bước đột phá thứ nhất. Bước đột phá thứ hai là giai đoạn 1930 – 1945. Văn chương nước ta chuyển từ Đông sang Tây, từ cổ điển sang hiện đại, từ văn chương chữ Hán – Nôm sang văn chương chữ quốc ngữ. So với văn xuôi, sự chuyển mình của thi ca trong giai đoạn này khó khăn, trắc trở hơn. Bởi bức tường văn xuôi quá khứ của nước ta còn khá mỏng, chỉ cần đụng nhẹ là sụp đổ. Còn bức tường thi ca thì vô cùng kiên cố. Làm sụp đổ bức tường kiên cố tồn tại hàng ngàn năm là một kỳ tích. Nhà phê bình Hoài Thanh đã thâu tóm quá trình hình thành Thơ Mới qua chuyên luận Một thời đại trong thi ca. Có được phong trào Thơ Mới công đầu thuộc về Phan Khôi. Kế tiếp phải kể đến Lưu Trọng Lư. Thời Thơ Mới vừa manh nha, Lưu Trọng Lư “tả xung hữu đột”, vừa viết bài tranh luận, vừa đi diễn thuyết, vừa sáng tác. Thành tựu Thơ Mới giai đoạn này phần nào nổi trội hơn thành tựu văn xuôi.
Từ năm 1986 đến nay được xem là bước đột phá lần thứ ba. Chủ trương “cởi trói” của Đảng cho văn nghệ sĩ như một luồng gió mới, tạo điều kiện cho một số cây bút tài năng, bản lĩnh có cơ hội công bố và tiếp tục sáng tác những tác phẩm gan ruột của mình. Họ đi sâu phản ánh những góc khuất trong đời sống xã hội. Một số nhà xuất bản mạnh dạn cấp giấy phép cho những tác phẩm bị xem là “có vấn đề nhạy cảm” mà trước đây họ hết sức e ngại. Một số lãnh đạo văn nghệ, một số nhà lý luận phê bình công khai bày tỏ quan điểm, nhận định riêng của mình về hiện trạng văn chương trong nước – điều mà trước đó chưa ai dám nói. Mấy năm đầu của công cuộc đổi mới, bạn đọc cả nước háo hức chờ đón báo Văn nghệ, báo Văn nghệ Trẻ, tạp chí Sông Hương, Cửa Việt… Một số nhà văn thời Nhân văn Giai phẩm: Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm… không chỉ được minh oan mà còn được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Một số nhà thơ có tên tuổi mạnh dạn loại bỏ thơ cũ quyết tâm làm mới thơ mình. Một vài cây bút trẻ xuất hiện trên văn đàn với giọng thơ lạ, được các bậc đàn anh hết lòng nâng đỡ. Có người đưa hết tâm sức tập hợp, khảo cứu phong trào đổi mới thi ca với mong muốn làm một Thi nhân Việt Nam thứ hai.
Mạng xã hội cũng góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới văn chương nói riêng. Xu hướng đổi mới thi ca thời kỳ này có những thành tựu đáng kể, với những tên tuổi được ghi nhận: Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Trần Nhuận Minh, Inrasara, Nguyễn Bình Phương, Hoàng Vũ Thuật, Vi Thùy Linh, Đinh Thị Như Thúy… Cùng với thơ, văn xuôi xuất hiện một số tác giả, tác phẩm gây chấn động dư luận trong và ngoài nước: Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Bến không chồng (Dương Hướng), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Mê lộ (Phạm Thị Hoài), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)… và gần đây là cuốn tiểu thuyết Từ Dụ thái hậu (Trần Thùy Mai). Có thể khẳng định: trong công cuộc đổi mới, so với thơ, văn xuôi ghi dấu ấn đậm nét hơn, có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn, được công chúng đón nhận rộng rãi hơn, có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn.
Một câu hỏi đặt ra là: Vì sao thành tựu đổi mới thi ca từ 1986 đến nay có phần lép vế so với văn xuôi? Câu trả lời “thật không dễ dàng chi”. Công bằng mà nói, nếu tính từ 1975 thì thơ có xu hướng bứt phá trước văn xuôi. Cuối 1979, báo Văn nghệ đăng bài thơ Nói với con của Thạch Quỳ làm xôn xao dư luận. 2 năm sau (1981) báo Văn nghệ đăng bài thơ Tản mạn thời tôi sống của Nguyễn Trọng Tạo gây tiếng vang lớn. 3 năm sau (1982), cũng trên báo Văn nghệ đăng bài Bên mộ Nguyễn Du của Vương Trọng. Bài thơ ngay lập tức nảy sinh những luồng dư luận trái chiều. 5 năm sau (1984) trên tạp chí Sông Hương đăng bài Người đàn ông 43 tuổi nói về mình của Trần Vàng Sao cũng gây nhiều tranh cãi. Điều đó chứng tỏ thơ đã đi trước văn xuôi một bước. Thơ ca ngợi dần dần nhường chỗ cho thơ thế sự. Từ sau 1986, với chủ trương đổi mới, thơ siêu thực, thơ hậu hiện đại, thơ tân hình thức, thơ văn xuôi, thơ không vần được tung hô, được cổ xúy. Một bộ phận độc giả (phần lớn là các bạn trẻ) yêu thích cái mới ủng hộ nhiệt liệt. Ngay sau đó có một hiện tượng lạ xuất hiện.
Thơ Đường luật ngỡ đã bị khai tử từ giai đoạn 1930 – 1945 bỗng nhiên sống lại. “Một bộ phận không nhỏ” (phần lớn là các cụ hưu trí) dạy nhau, khuyến khích nhau làm thơ Đường luật, thành lập các câu lạc bộ Thơ Đường luật. Tuy ít được đăng tải trên báo chí nhưng các Tuyển tập thơ Đường luật với hàng ngàn bài thơ, hàng trăm tác giả lần lượt được các nhà xuất bản cấp giấy phép. Nếu chịu khó đãi cát tìm vàng cũng thu lượm được không ít những câu thơ hay, những bài thơ hay. Một số bài thơ thế sự của Nguyễn Duy tuy không xuất hiện trên báo chí nhưng lại được lan truyền bằng miệng khá rộng rãi. Bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh? của cô giáo Trần Thị Lam chỉ đăng trên trang Facebook cá nhân ngay lập tức được hàng triệu người chia sẻ, bình phẩm, tranh luận…
Người quyết tâm từ bỏ thơ cũ làm mới thơ mình được nhiều độc giả quan tâm là Trần Nhuận Minh. Thơ anh không triết lý cao siêu, không phô trương hình thức mà chỉ ghi lại một vài cảnh đời thương tâm bằng lối thơ tự sự bình dị, dân dã. Điều đó được thể hiện khá rõ qua một loạt bài: Mợ Hữu, Thím Hai Vui, Ông Hủi, Dì Nga… Ẩn đằng sau lối tự sự bình dị, dân dã ấy chất chứa tình yêu thương con người và triết lí nhân sinh. Trong những bài thơ tự sự viết về thời hậu chiến, có lẽ bài Thím Hai Vui là đáng để chúng ta suy ngẫm hơn cả: Những năm chú ra trận/ Thím buồn vui một mình/ Thím bảo những ngày ấy/ Là những năm hòa bình/ Có tin đồn chú mất/ Thím thầm cắn chặt môi/ Nuôi hai con ăn học/ Cấy cày đến quắt người/ Bỗng đột nhiên chú về/ Tung huân chương đầy chiếu/ Thím cười mà như mếu/ Nước mắt chả buồn lau/ Thế rồi… biết vì đâu/ Yên lành không chịu được/ Vợ con chú đánh trước/ Xóm giềng chú đánh sau/ Chớ dại mà can chú/ Chú nhất cả huyện rồi/ Giặc nào chú cũng thắng/ Có thua, thua ông trời!/ Chỉ thương thím Hai Vui/ Mặt mũi luôn thâm tím/ Đến bây giờ chiến tranh/ Mới đến thật với thím… Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “Trần Nhuận Minh đủ độ từng trải và đủ tài thơ, để cảm nhận thời thế, nhân tâm, để giãi bày nó lên trang giấy, gọn, chắc, xúc động lòng người”.
Trong thời kỳ Đổi mới từ 1986 đến nay. bên cạnh thơ tân hình thức, thơ không vần, thơ văn xuôi thì thơ lục bát vẫn được nhiều người sử dụng. Trong quá trình hình thành và phát triển, lục bát đã trải qua 3 thử thách lớn. Thử thách thứ nhất là khi thể song thất lục bát ra đời. Song thất lục bát phát triển mạnh vào thế kỉ 18 cho đến tận đầu thế kỉ 20. Nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử dụng thể thơ này: bản dịch Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm), Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), bản dịch Tỳ bà hành (Phan Huy Thực)… Với sự thắng thế của song thất lục bát, tưởng chừng thể thơ lục bát sẽ bị mai một dần. Nhưng không! Lục bát vẫn “cạnh tranh quyết liệt” và đồng hành cùng song thất lục bát. Các tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), Truyện Hoa Tiên (Nguyễn Huy Tự), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)… được viết bằng thơ lục bát. Thử thách thứ hai là kể từ khi thơ tự do xuất hiện vào giai đoạn 1930-1945. Với nhiều lợi thế, thế thơ tự do dần dần chiếm lĩnh thi đàn. Các thể thơ truyền thống như thất ngôn bát cú, song thất lục bát bị lép vế hoàn toàn. Chỉ có thơ lục bát là không chịu lùi bước. Các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới như Huy Cận, Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… không hề từ bỏ thể thơ này.
Thử thách thứ 3 là từ 1986 đến nay. Khi mà trào lưu thơ tân hình thức đang được một số người ưa chuộng, cổ súy; khi mà thơ song thất lục bát hầu như vắng bóng, thơ thất ngôn bát cú chỉ còn được các cụ hưu trí sáng tác để cùng nhau xướng họa, thù tạc… thì thơ lục bát vẫn “bám trụ” một cách vững chắc. Số người viết và chất lượng thơ lục bát ngày càng gia tăng. Đồng Đức Bốn nổi lên như một hiện tượng. Lục bát của anh đã chinh phục được đông đảo độc giả bằng giọng thơ riêng với cách ngắt nhịp, dùng từ; với những tứ thơ độc lạ. Ngoài Đồng Đức Bốn còn có thơ lục bát của Nguyễn Duy, Vương Trọng, Lê Đình Cánh, Trúc Thông… Bài Bờ sông vẫn gió của Trúc Thông được nhiều người yêu thích. “Vốn là người con hiếu thảo, nhớ thương mẹ, Trúc Thông trở về, đi thập thững trên con đường xưa mẹ đi, anh quên mất mình là nhà cách tân. Và vì thế, anh đã cho chúng ta một bài thơ khá hay. Đây là bài thơ hay nhất trong đời Trúc Thông. Bài thơ viết theo lối cổ điển, chả cách… một tý nào. Lời chắt. Ý sâu. Câu chữ như rút ruột mà thành” (Trần Đăng Khoa).
![]() |
| Thơ tự do không vần xuất hiện đầu thế kỉ XX ở phương Tây, nhưng mãi đến đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (1948 – 1949) mới xuất hiện ở Việt Nam. Ảnh minh họa. Nguồn Internet |
Đổi mới thi ca là cần thiết nhưng đổi mới phải trên cơ sở kế thừa. Về nội dung, thơ xưa nay vẫn là tiếng nói của tình cảm. Tình cảm của thơ phải xuất phát từ cảm xúc chân thật, xuất phát từ hoàn cảnh riêng tư, từ thực tế đời sống; phải thể hiện được tâm tự, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Nội dung thi ca chuyển biến và thay đổi theo cảnh ngộ, theo thời cuộc. Hình thức thi ca chuyển biến, thay đổi có phần chậm hơn và không phụ thuộc nhiều vào cảnh ngộ, thời cuộc. Thơ Đường luật ở Trung Quốc tồn tại ngót 3 thế kỉ (618 – 907). Thể song thất lục bát ở nước ta cũng tồn tại gần 1 thế kỉ (cuối thế kỉ 18 đến giữa thế kỉ 20). Thơ tự do có vần tồn tại từ năm 1930 đến nay (2025) và chắc chắn vẫn còn tồn tại lâu dài. Thơ tự do không vần xuất hiện đầu thế kỉ XX ở phương Tây, nhưng mãi đến đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (1948 – 1949) mới xuất hiện ở Việt Nam.
Người khai mở thơ tự do không vần ở Việt Nam là Nguyễn Đình Thi với các bài: Đường núi, Không nói, Sáng mát trong như sáng năm xưa… Tiếp theo là Trần Mai Ninh với Nhớ máu, Tình sông núi; Hữu Loan với Đèo Cả; Văn Cao với Ngoại ô mùa đông năm 46… Tiếc là thơ tự do không vần thời đó bị phê phán gay gắt nên không có điều kiện tiếp tục phát triển. Từ 1986 đến nay thơ tự do không vần lại được hồi sinh. Làm thơ tự do không vần cho hay, được công chúng yêu thích là điều cực khó. Dân ta đa phần thích thơ có vần vì dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc. Vần là yếu tố vô cùng quan trọng của thơ. Bỏ vần là tước bỏ ưu thế của thơ. Bỏ vần, ranh giới giữa thơ và văn xuôi hết sức mỏng manh. Bởi vậy, đa số nhà thơ thành danh như Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo… vẫn tiếp tục làm thơ lục bát, thơ tự do có vần.
Một thời đại mà có nhiều quan niệm, nhiều xu hướng, nhiều trường phái, nhiều trào lưu thơ khác nhau là điều đáng mừng. Nó làm cho bộ mặt thi ca nước nhà phong phú và đa dạng. Cuộc cạnh tranh giữa thơ tự do có vần với thơ tự do không vần, thơ Đường luật với thơ lục bát, thơ bác học với thơ bình dân, thơ in trên sách báo với thơ truyền miệng, thơ trên mạng xã hội… làm cho không khí thi ca thêm phần sôi nổi. Bạn đọc tha hồ lựa chọn thơ theo sở thích của mình. Người cao siêu chọn thơ cao siêu, người bình dị chọn thơ bình dị, người thích vần chọn thơ có vần, người ghét vần chọn thơ không vần…
Thưởng thức thơ cũng như uống rượu “tửu bất khả ép”. Văn chương nói chung và thi ca nói riêng cái mới chưa hẳn tốt hơn, hay hơn cái cũ. Thơ đời Tống không vượt được thơ đời Đường. Ở nước ta, chưa có tác phẩm nào vượt được Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh viết bằng chữ Hán và thể Đường luật nhưng được cả thế giới biết đến. Đích cuối cùng là phấn đấu có thơ hay vượt qua thử thách thời gian.
------------
Bài viết được khai thác từ tham luận tại Hội thảo tổng kết văn học Việt Nam sau năm 1975 với chủ đề “Những vấn đề đặt ra và triển vọng phát triển văn học” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng.