Năm 1975 là cột mốc quan trọng không chỉ ở việc thống nhất đất nước mà còn ở cả trong văn học nói chung và thơ nói riêng. Đặc biệt, năm 1986 như một dấu son đóng đinh vào lịch sử văn học, tạo bước ngoặc lớn chưa từng có cho thơ Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XX đến tận hôm nay. Công cuộc đổi mới rung lên hồi chuông báo hiệu chấm dứt một thời kỳ văn học trong “hành lang hẹp”, văn học của “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” bằng sự áp đặt, trói buộc thô sơ và phê phán nặng nề với văn học nghệ thuật. Chấm dứt thời kỳ sáng tác phục vụ chính trị “Một câu thơ gánh ba phần nhiệm vụ”, chấm dứt cách viết một chiều, phản ánh, đơn điệu, dập khuôn, sơ lược, ngợi ca… của một thời chiếm vị thế thượng phong trên văn đàn…
Công cuộc đổi mới mang lại luồng sinh khí mới, tạo thay đổi to lớn trong việc kế thừa và phát triển nền văn hóa dân tộc. Tư duy lý luận của các cấp lãnh đạo về văn học nghệ thuật có sự chuyển biến mới; giao lưu quốc tế mở ra nhiều cơ hội, nhiều cách tiếp cận mới mẻ; nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần được nâng lên; các chuẩn mực văn hóa và đạo đức mới hình thành…Tất cả những yếu tố đó là cơ sở để văn học nghệ thuật nở rộ.
Thơ cũng như văn xuôi 50 năm qua có sự chuyển biến mạnh mẽ ở một chiều kích mới mẻ, sâu sắc. Ảnh minh họa. Nguồn internet |
Đối với thơ, ngoài những yếu tố trên còn được chắp cánh bởi một luồng sinh khí mới với sự hội tụ thống nhất của hai dòng văn học lớn ở hai miền Nam- Bắc; sự tương tác, hòa giải giữa văn học trong nước và hải ngoại, sự mở rộng các mối quan hệ quốc tế, cùng với việc phát triển mạnh mẽ của internet, làm cho đời sống văn học thêm sức sống mới, tràn đầy nhiệt huyết trong tinh thần dân chủ, cởi mở và nhân văn…
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự xuất hiện trở lại của những nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng trong nhóm Nhân văn và các sáng tác mang hơi thở mới mẻ của các nhà thơ Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Bùi Giáng…đã tạo ra không khí văn chương dân chủ, cởi mở có tác động không nhỏ đến quá trình phát triển của thơ sau năm 1975.
Đội ngũ đông đảo các nhà thơ chống Mỹ từ Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu, Trúc Thông, Ý Nhi, đến Trần Đăng Khoa, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Anh Ngọc, Vương Trọng, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Thi Hoàng, Y Phương, Hoàng Trần Cương…lần lượt cho ra đời những tác phẩm mới mẻ, mang bản sắc riêng biệt của giai đoạn 1975- 1986. Đó là thời kỳ các nhà thơ nhận thức sâu sắc về vai trò của nghệ thuật. Thời kỳ của cái tôi trữ tình được đặt trong mối quan hệ đa chiều, phong phú của đời sống. Nhà thơ tự nhìn lại chính mình, cá tính được đề cao, cái nhìn sử thi vẫn còn đó nhưng được thể hiện ở một chiều kích khác, mới mẻ đa dạng hơn. Cách nhìn cuộc chiến tranh chân thực hơn. Tạo được không khí mới, đa giọng điệu làm nền tảng cho giai đoạn đổi mới sau này.
Thế hệ các nhà thơ viết sau năm 1975 vừa ra đời, còn đang chập chững vào nghề nhưng đã ý thức rất rõ rằng, tất cả đã thay đổi, không thể viết như cũ. Nhưng viết như thế nào? Phía trước là chông gai thách thức, đòi hỏi sự dấn thân và những nỗ lực cá nhân. Đó là Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Trần Anh Thái, Đỗ Minh Tuấn, Trần Quang Quý, Trần Hùng, nrasara, Đặng Huy Giang, Mai Văn Phấn, Dương Thuấn, Nguyễn Linh Khiếu, Trần Quang Đạo, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Việt Chiến, Tuyết Nga, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lê Thị Kim, Ánh Huỳnh, Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc, Lê Mạnh Tuấn, Nguyễn Thành Phong, Phan Hoàng, Trần Tiến Dũng, Thu Nguyệt…
Mở cửa, các nhà thơ hải ngoại xuất hiện. Vấn đề hòa giải, hòa hợp được đặt đặt ra như một đòi hỏi của thực tế khách quan. Những tương tác qua lại giữa thơ ca trong nước và thơ ca hải ngoại, trong đó nổi lên một số tên tuổi từng thành danh ở miền Nam từ trước năm 1975 và một lực lượng sáng tác trẻ xuất hiện sau năm 1975, đã mở ra nhiều cơ hội mới cho thơ...
Tất cả các thế hệ nhà thơ này hội tụ tạo thành một đội quân hùng hậu, giàu nhiệt huyết đam mê bằng sự ra đời một số lượng tác phẩm đồ sộ, nhiều phong cách, giọng điệu khác nhau nhưng không loại bỏ triệt tiêu nhau, đó là cánh rừng đa thanh, đa sắc mang vẻ đẹp độc đáo, mới lạ làm nên một thời đại mới cho thơ sau năm 1975.
Sự đổi mới này diễn ra sâu rộng ở cả nội dung và hình thức mà đặc biệt là việc tái khám phá hiện thực, xác lập vị trí của cái tôi cá nhân, cất lên tiếng nói đòi hỏi được giải phóng, tự do cá nhân trên tinh thần cởi mở và nhân văn. Thơ quay về với cuộc sống đời thường, với mọi va đập đắng cay và hạnh phúc, tốt và xấu, yêu thương và căm giận…vượt lên sự mặc cảm phụ thuộc vào thể chế, vào bao cấp để độc lập bước ra thế giới mênh mông, bất chấp mọi rủi ro thách thức. “Thơ là tâm thế là trạng thái Trên đường, đặt ra vấn đề bản thể con người, khao khát quay về với bản thể, vấn đề của sự tồn tại - Trương Đăng Dung”. “Thơ tràn ngập tinh thần phản tỉnh, cảm thức lo âu, bối rối, buồn rầu thất vọng, tự diễu mình nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào ngày mai, vào sự sống con người - Trần Đình Sử ”...
Sự đổi mới này tiếp tục thôi các nhà thơ thế hệ sau tìm kiếm, khai phá, mở rộng các cách thức biểu hiện mới, thi pháp mới cho thơ. Một đội ngũ trẻ hơn, sung sức với nhiều đam mê sáng tạo, tìm tòi đổi mới xuất hiện như Vi Thùy Linh, Trần Kim Hoa, Bình Nguyên Trang, Trang Thanh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Đinh Thị Như Thúy , Phạm Đương và thế hệ trẻ 8x, 9x sau này như Đoàn Văn Mật, Nhã Thuyên, Trần Lê Sơn, Phạm Nguyệt, Kiều Ma Ly, Du Nguyên, Lữ Thị Mai, Nguyễn Quang Hưng, Khương Hà…
Có thể nói 50 năm qua, thơ phát triển lên tầm mức mới bằng sự mở rộng các chiều kích, đội ngũ sáng tác đông đảo, ở mọi đề tài phong phú, đa dạng muôn màu sắc với rất nhiều tìm tòi sáng tạo. Trong đó đáng chú ý là thơ viết về chiến tranh, đặc biệt là làn sóng trường ca lần thứ 2 được các nhà thơ đào xới như một nhu cầu trả món nợ cho quá khứ với nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái với những mất mát đau thương, thẩm thấu tận sâu bên trong tâm hồn con người. Cùng với nó là cách nhìn mới mẻ, khác với làn sóng trường ca trước đó. Sự khác này không phải là sự đánh đồng địch ta, bên chiến thắng và kẻ thua cuộc mà là: “sự thể cao vời hơn, thăm thẳm hơn: Sự ưu tư về định mệnh dân tộc - suy tư về cội nguồn, về quê hương… -- Inrasara”. với “Gọi nhau qua vách núi”, “Đổ bóng xuống mặt trời”, “Ngày đang mở sáng”; “Chín tháng”, “Đò trăng”, “Trầm Tích” …
Bên cạnh dòng thơ viết về chiến tranh, thơ viết về biên giới hải đảo từ năm 1986 đặc biệt là sau năm 2000 phát triển mạnh mẽ, nhất là sau những hành động ngang ngược của Trung Quốc đưa giàn khoan xâm phạm chủ quyền tổ quốc tháng 5- 2014. Tên gọi Hoàng Sa, Trường Sa vang lên đầy xúc động trong trái tim của mọi người Việt Nam ở cả trong nước và hải ngoại. Năm 2020, Hội nhà văn đã tổ chức trao Giải thưởng tôn vinh tác giả viết về biên giới hải đảo với những gương mặt xuất sắc của nền văn học, đó là “Đảo chìm” của Trần Đăng Khoa, “Mình và họ” của Nguyễn Bình Phương, “Ba phần tư trái đất” của Thi Hoàng, “Từ biển mà đi”, “Thơ viết về biển”, “Mộ gió” của Trịnh Công Lộc, “Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến, “Đảo chìm và hơi thở rừng hồi” của Vương Trọng, “Hạ thủy những giấc mơ” của Nguyễn Hữu Quý, “Sóng trầm biển dựng” của Đoàn Văn Mật, …và rất nhiều tác phẩm viết về biên giới hải đảo khác.
Nói gọn lại, Thơ cũng như văn xuôi 50 năm qua có sự chuyển biến mạnh mẽ ở một chiều kích mới mẻ, sâu sắc, cá tính hóa cao, nhà thơ tự do bộc lộ chính mình, sống đến tận cùng cái tôi bản thể, như nhà thơ Chế Lan Viên từng thú nhận: “Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm/ Cái giọng hát lẫn với im lìm của đất/ Vườn lặng im mà thơm mùi mít mật/ Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân”. Có thể nói chưa một thời kỳ nào trong lịch sử thi ca dân tộc, các nhà thơ lại được tự do biểu hiện mọi suy nghĩ của mình như giai đoạn đổi mới vừa qua. Sự đổi mới này diễn ra sôi động, sâu rộng, mạnh mẽ, quyết liệt với muôn vàn cách thức biểu hiện phong phú, đa dạng nhằm khai thác tối đa chiều sâu tâm linh và những góc khuất trong sâu thẳm tâm hồn con người. Thơ đi vào từng ngóc ngách đời thường; thơ cất lên tiếng hát của nỗi buồn và thân phận, những khát vọng lớn lao và những nỗi đau mất mát, những bế tắc tuyệt vọng trước bao giông gió cuộc đời với rất nhiều cung bậc, cảm thức mới lạ. Ngôn ngữ thơ đa thanh, đa giọng điệu đan xen từ trữ tình cao siêu đến trữ tình bình dân, từ ngôn ngữ tâm linh đến ngôn ngữ trò chơi, cắt dán, hình thể,…tất cả đều bình đẳng, song song tồn tại. Thêm vào đó, thời đại Internet đã cho ra đời hàng loạt website, blog của các tổ chức và cá nhân càng thúc đẩy mạnh mẽ mọi sự tìm tòi khám phá.
Cùng với đó, thơ còn chứng kiến sự nở rộ những thể nghiệm tìm tòi, những cách tân mạnh mẽ cả nội dung và hình thức. Nhiều thể nghiệm tiếp thu một cách có chọn lọc các trường phái thơ hiện đại, hậu hiện đại phương Tây và được vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo đã tạo ra chất xúc tác thúc đẩy thơ Việt Nam phát triển. Bên cạnh các thể thơ truyền thống, các nhà thơ thể nghiệm tìm tòi thuộc nhiều thế hệ phát triển mạnh mẽ thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ hai câu, ba câu, thơ năm câu, thơ dòng chữ, thơ tân hình thức, thơ trò chơi, thơ hình thể, thơ trình diễn , thơ sắp đặt, thơ tính dục, sex…tất cả là nhằm chống lại sự sáo mòn cũ kỹ, thoát ra khỏi những quy ước khuôn sáo ước lệ, mục đích nhằm kéo thơ trở lại với công chúng, tôn vinh nghệ thuật, hướng tới cái đẹp…
Năm mươi năm là một chặng đường khá dài và cuộc đổi mới thơ đã đạt được những bước tiến rất quan trọng trong sự phát triển chung của nền thơ ca dân tộc. Hy vọng những năm tới, thành tựu của cuộc đổi mới thơ tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới, chất lượng cao hơn, hội nhập sâu rộng vào nền thơ ca thế giới, ghi dấu ấn mạnh mẽ với các nền thơ ca của các dân tộc khác…
Trần Anh Thái
Tham luận tại Hội nghị Lý luận phê bình lần thứ V