Sáng tác

Huyền thoại đầm Vịt Vàng. Truyện ngắn của Trần Hữu Lạn

Trần Hữu Lạn
Truyện 07:00 | 25/08/2025
Baovannghe.vn- Không biết cái đầm nước của làng Hạ có tên là đầm Vịt Vàng từ bao giờ. Chỉ biết trẻ con làng Hạ không đứa nào không được nghe về đàn vịt vàng đêm đêm bơi ra đùa giỡn, vùng vẫy giữa đầm, ánh vàng của đàn vịt lóe sáng, lúc ẩn, lúc hiện, lập lòe như ma trơi, nghe vừa thích vừa sợ.
aa

Không biết cái đầm nước của làng Hạ có tên là đầm Vịt Vàng từ bao giờ. Chỉ biết trẻ con làng Hạ không đứa nào không được nghe về đàn vịt vàng đêm đêm bơi ra đùa giỡn, vùng vẫy giữa đầm, ánh vàng của đàn vịt lóe sáng, lúc ẩn, lúc hiện, lập lòe như ma trơi, nghe vừa thích vừa sợ.

Huyền thoại đầm Vịt Vàng. Truyện ngắn của Trần Hữu Lạn
Minh họa Đào Quốc Huy

Chuyện kể rằng khi nạn giặc Cờ Đen tràn qua làng Hạ, có một chú khách trốn khỏi đoàn quân Cờ Đen, xin sống ở làng. Được người làng Hạ che chở, mấy năm sau chú khách kết hôn với một người đàn bà góa làng Hạ. Từ đó người làng Hạ không gọi ông ta là chú khách nữa mà gọi là Tài Lân. Tài Lân là cái tên Tàu được phiên âm ra tiếng Việt. Không hiểu nguyên do vì đâu, ông bà Tài Lân sống với nhau mãi không có con, nhưng giàu có lắm. Ông Tài Lân có nghề thuốc gia truyền đem từ bên Tàu sang. Lúc đầu ông ta cho thuốc vào tay nải, rong ruổi khắp vùng, miệng rao: “Thôốc thôốc ơ! Thôốc thôốc ơ!” Đồn rằng thuốc của ông ta chữa bách bệnh nên ai cũng mua. Khi đã có uy tín rồi, ông Tài Lân chỉ việc ở nhà thuê người đến chế biến, khách đến mua nườm nượp. Đến năm ông bà Tài Lân già yếu, nghe chừng không còn thọ lâu nữa, tiền của kiếm được không biết để quyền thừa kế cho ai, ông ta bí mật thuê thợ chế tác vàng đến nhà đúc vàng thành những con vịt. Tự tay ông ta đem chôn những con vịt vàng đó bên cạnh cái đầm hoang, nơi ông dặn gia nhân sau này ông chết sẽ đặt mộ ông ở đó. Khi chôn vịt vàng cũng tự tay ông ta vẽ sơ đồ rồi bí mật gửi về Tàu để sau này có người bên Tàu sang cứ theo sơ đồ mà tìm đào lấy vàng. Người làng Hạ nghe vậy cũng chỉ biết vậy, tai người nọ sang tai người kia, chứ chẳng ai biết thực hư ra sao. Câu chuyện có thế, được người làng Hạ thêu dệt lên như một huyền thoại. Cái đầm hoang có tên là đầm Vịt Vàng từ đó.

Làng Hạ khi đó có ông Soạn là người kiếm sống bằng nghề bắt ếch. Ông kể rằng, một đêm đi bắt ếch sau cơn mưa tháng Ba, ông nhìn thấy đàn vịt vàng đang bơi tắm giữa đầm. Ông đánh bạo bơi ra để bắt thì đàn vịt lặn mất tăm, chỉ để lại một quầng sáng giữa đầm, ông tiếc ngẩn tiếc ngơ. Ông còn phịa ra bảo trong đàn vịt có một con vịt què, cứ lạch đạch cố lết theo đàn, thế mà ông đuổi gần kịp nó thì nó cũng lặn nhanh như có phép thần thông. Dễ chừng vịt thần, ông Soạn bảo thế làm người ta tin sái cổ. Nghe ông Soạn, nhiều người cũng bí mật đi rình để bắt vịt vàng, nhưng nào ai có thấy vịt vàng bao giờ.

Câu chuyện vịt vàng cứ ám ảnh bọn trẻ chúng tôi cho đến tận những năm làng Hạ xảy ra biết bao biến cố, làm cho người ta quên đi câu chuyện đầy tính huyền thoại ấy. Đó là những năm làng Hạ bị giặc Pháp chiếm đóng sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946. Giặc đến, dân làng Hạ tản cư ra vùng tự do. Chỉ có cha con lão chánh Hách theo giặc lên ở trên đồn Tây. Một năm sau, dân làng lại kéo nhau về làng lập tề, chấp nhận sống trong vùng Pháp tạm chiếm. Chánh Hách trở thành tổng ủy hội tề (như chức chánh tổng thời Pháp thuộc). Thằng Mịch con trai chánh Hách thì xung vào lính pa-ti- zăng của Pháp được đeo lon thiếu úy vì hắn khét tiếng ác ôn. Cha con chánh Hách cậy quyền thế chiếm đoạt đầm Vịt Vàng. Thằng Mịch bắt phu dọn sạch cỏ hoang, biến cái đầm hoang trở thành cái hồ sen đẹp đẽ. Giữa hồ hắn cho dựng cái lầu nổi, làm nơi ăn chơi đú đởn, nhưng thực chất cái lầu nổi đó biến thành cái vọng gác để hắn theo dõi, rình rập, khống chế du kích Việt Minh xâm nhập vào làng Hạ.

Chánh Hách vẫn khoe với dân làng hắn là người có họ hàng xa với bà Tài Lân. Nhân xây lăng mộ cho ông bà Tài Lân, hắn cho người đào bới xung quanh khu mộ. Người làng Hạ đi guốc vào bụng cha con hắn, bảo chuyện xây mộ chỉ là cái cớ che mắt thiên hạ, chứ cha con hắn đang cố tìm số vàng ông Tài Lân chôn cất ngày xưa. Không biết có tìm được vàng không, nhưng cứ thấy cung cách ăn chơi của cha con hắn thì không ai còn nghi ngờ về sự giàu có của cha con hắn nữa. Hằng tuần, vào thứ bảy, chủ nhật, cha con hắn dẫn bọn sĩ quan Pháp, lính pa-ti-zăng về ăn chơi nhảy múa trong căn lầu nổi giữa hồ sen nhà hắn. Tiếng cười nói, tiếng nhạc xập xình vang động cả khu hồ có tiếng là hoang vắng xưa nay.

*

Năm ấy, chị Nguyệt tròn hai mươi tuổi, cái tuổi xinh đẹp nhất của đời người. Nhìn chị, không ai bảo chị là con nhà nghèo. Đôi mắt sắc sảo đặt cân đối vào khuôn mặt trái xoan làm tôn thêm cái mũi dọc dừa duyên dáng. Đôi má lúc nào cũng hồng tươi, điểm thêm hai lúm đồng tiền. Con người ấy làm sao thoát khỏi tầm ngắm đôi mắt cú vọ của thằng Mịch. Nhà Nguyệt chỉ có hai mẹ con. Bố mất sớm năm Nguyệt mới có năm tuổi, có miếng đất trong làng bà Tâm phải gán nợ làm lễ tang cho chồng. Bây giờ hai mẹ con phải dựng tạm căn lều trên mảnh đất của dòng họ Trần cạnh đầm Vịt Vàng. Căn lều tự nhiên trở thành chỗ trú chân cho tiểu đội du kích mỗi khi bí mật vào làng Hạ bám dân chống giặc càn quét. Cha con chánh Hách đánh hơi thấy chuyện này. Đêm đêm thằng Mịch bí mật dẫn trung đội lính pa-ti-zăng nằm phục kích gần căn lều mẹ con bà Tâm. Đêm ấy, trời tối như bưng, thằng Mịch cùng thuộc hạ nằm phục kích sát nhà bà Tâm. Vừa nghe tiếng kẹt cửa, thằng Mịch hô lính đạp cửa xông vào. Bà Tâm giả vờ ốm nằm rên hừ hừ trên chõng tre kê sát vách. Còn Nguyệt thì nhanh trí đứng nép vào sau cánh cửa. Thằng Mịch quát: “Bà Tâm, thằng Việt Minh mới lẻn vào nhà bà, nó trốn ở đâu?” “Làm gì có ai là Việt Minh vào nhà tôi giữa đêm hôm khuya khoắt này. Căn lều trống huơ trống hoác có chỗ nào trốn được mà các ông đặt điều.” Bà Tâm vừa rên hừ hừ vừa trả lời cứng cỏi. Thằng Mịch lại tiếp tục đe dọa: “Bà liệu đấy. Tôi tìm thấy thằng Việt Minh thì bà đừng trách thằng này xử ác. Cô Nguyệt đâu mà không có nhà? Bọn bay lục soát!”

Thằng Mịch lia đèn pin vào phía sau cánh cửa. Một ánh mắt phụ nữ nhìn thẳng vào ánh đèn. Thằng Mịch sững sờ, nhìn như thôi miên vào đôi mắt ấy. Đôi mắt đẹp, dịu hiền của Nguyệt lúc này như có lửa, nhưng lại làm cho thằng Mịch mềm lòng. Hắn nhớ lại đôi mắt ấy hôm hắn gặp Nguyệt ở phiên chợ tổng. Nguyệt đang ngồi trước quầy hàng xén của bà Nhị. Mải ngắm hàng, Nguyệt không hay biết thằng Mịch đang ngắm mình ở phía sau lưng. Hắn nhìn xoáy vào tấm áo nâu non bó sát tấm lưng tròn lẳn của người con gái đang ở cái tuổi đầy đặn, mê đắm nhất, người con gái ngày đêm hắn vẫn ước ao chiếm đoạt. Cái cổ cao trắng ngần dưới làn tóc vấn trần như hút mất hồn thằng háu gái. Thằng Mịch cứ mê mẩn ngắm người con gái đẹp hồi lâu. Hắn định buông lời ong bướm thì vừa lúc Nguyệt ngoảnh lại. Nguyệt sững người, nhưng vẫn giả vờ cười tươi. Đôi mắt Nguyệt lúng liếng làm cho thằng Mịch như mụ mị đi. Hắn làm ra vẻ tự nhiên: “Ồ! Cô Nguyệt. Cứ ngỡ cô gái đẹp nào, hóa ra là em. Em mua gì để anh trả tiền.” Nguyệt cũng làm ra vẻ thân mật như những cô gái được trai làng tán tỉnh: “Em mua cái lược chải tóc mà chưa đủ tiền trả bà Nhị đây.” Thằng Mịch như bắt được vàng, ngây ngất bông lơn: “Ôi, được giúp người đẹp thì còn gì bằng, em cứ lấy lược đi, tiền anh sẽ trả bà Nhị.”

Từ hôm ấy, thằng Mịch chết mê chết mệt người con gái mà trước đây hắn chưa có dịp gần gụi. Hắn nói với chánh Hách là hắn sẽ hỏi cưới Nguyệt làm vợ. Cha hắn can ngăn, nói rằng mẹ con mụ Tâm chứa chấp Việt Minh trong nhà. Hắn nửa tin nửa ngờ, bây giờ hắn tin cha hắn nói đúng. Nhưng hắn vẫn quyết giành lấy Nguyệt bằng được. Hắn sẽ dùng mưu mẹo lừa bắt quả tang mẹ con bà Tâm chứa chấp Việt Minh rồi bày trò cứu Nguyệt, bắt Nguyệt phải mang ơn và chấp nhận làm vợ hắn. Đêm nay bọn thằng Mịch đạp cửa xông vào nhà làm Nguyệt lo lắng quá. May anh Minh chỉ huy đội du kích là người yêu Nguyệt kịp xuống hầm thoát ra ngoài. Con đường hầm thông ra đầm Vịt Vàng mẹ con Nguyệt bí mật đào cả tháng trời, mỗi khi có động anh em du kích đều thoát ra an toàn. Chắc anh Minh đã an toàn rồi, nhưng túi thuốc tây còn lù lù trong bồ thóc kia làm Nguyệt chưa hết lo, túi thuốc bà Nhị gửi mua trên tỉnh và giao cho Nguyệt hôm phiên chợ tổng mà thằng Mịch bắt gặp và tán tỉnh Nguyệt. Thằng Mịch phát hiện ra túi thuốc tây thì hắn có đủ bằng chứng buộc tội hai mẹ con Nguyệt đã mua thuốc tây tiếp tế cho Việt Minh. Thằng Mịch lia đèn pin khắp căn lều rồi lia thẳng vào bồ thóc. Nhanh trí, Nguyệt bật ra câu nói dịu dàng: “Có gì đâu anh. Thóc mẹ con em để dành cho mùa giáp hạt tháng ba đó.” Giọng con gái có sức thôi miên kẻ si tình, thằng Mịch cũng bông lơn: “Mùa giáp hạt nhà em thiếu ăn đã có anh lo, Nguyệt nhỉ?” “Thế ạ, anh giúp mẹ con em nhé!” Nguyệt thở phào nhẹ nhõm vừa qua cơn nguy hiểm.

Thằng Mịch lả lơi dăm ba câu nữa rồi lệnh cho lính rút. Không biết trong đầu hắn còn cất giấu mưu kế gì nữa. Tiếng giày đinh bọn pa-ti-zăng xa dần, xa dần. Một lúc sau, trên căn lầu nổi giữa đầm Vịt Vàng le lói ánh đèn, vọng lại âm thanh rè rè từ chiếc máy quay đĩa cũ mèm bài nhạc Pháp: J’ai deux amours (Tôi có hai mối tình). Căn lều mẹ con Nguyệt chìm trong khối đen của đêm cuối tháng.

*

Mùa đông năm ấy đội du kích làng Hạ được lệnh bí mật rút ra Bãi Giữa sát vùng tự do để tránh địch sắp mở trận càn lớn. Đêm ấy Nguyệt lén gặp Minh tại ngôi nhà người yêu ở dìa làng Hạ. Minh mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, đi ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà chánh Hách, lớn lên vừa dịp cách mạng tháng Tám thành công, anh tách ra sống độc thân. Đội du kích phải rút trước ba giờ sáng. Cuộc gặp ngắn ngủi làm cho đôi trai gái không muốn rời nhau. Trong đêm mịt mùng, bàn tay Minh run rẩy nắm chặt bàn tay Nguyệt. Anh cố truyền niềm tin yêu của mình bằng bàn tay nắm chặt. Hơi ấm bàn tay thay cho vạn lời yêu thương trong hoàn cảnh không thể nói với nhau bằng lời. Đôi trái gái như hòa vào nhau làm một. Trái tim họ cùng rung lên xao xuyến, hơi thở gấp gáp, xa xa tiếng gà gáy dồn dập báo hiệu đến giờ họ phải chia tay...

Chuyện Minh yêu Nguyệt rồi cũng đến tai cha con chánh Hách. Thằng Mịch lồng lộn như con thú dữ mất mồi. Lúc nào hắn cũng bô bô với đám thuộc hạ: “Bắt được thằng Minh tao xẻ nó thành trăm mảnh. Đồ ăn cháo đá bát.” Ngày lại ngày, hắn lấy rượu làm bạn. Nốc cả chai rượu, say mèm, rượu thay lời hắn lảm nhảm: “Em ơi! Buồn làm chi, đã có anh ở bên em suốt đời! À, mà đâu em còn là của anh. Hí… Hí… Giết! Giết! Tao sẽ giết chúng nó...”

Thằng Mịch đã trở thành con thú mất hết tính người. Không ngày nào hắn không dẫn lính về lục soát, càn quét làng Hạ. Dân làng Hạ đã trở thành kẻ thù của cha con hắn. Hắn thẳng tay để lính tráng tha hồ cướp bóc, đốt phá làng Hạ. Riêng ngôi nhà của Minh thằng Mịch tự tay châm lửa đốt để trả hận. Nguyệt không dám ở lại làng, tạm lánh lên thị trấn nương nhờ bà dì cách làng hai chục cây số. Thằng Mịch dẫn lính đến đe dọa bà Tâm: “Con Nguyệt nhà bà đã đi theo Việt Minh, bà phải nhắn nó về. Nó không về tôi cho lính đốt nhà bà đừng trách.” Bà Tâm dối quanh: “Em nó đi chợ tỉnh ít ngày, nhà đang thiếu ăn, phải để nó đi buôn kiếm thêm tiền mẹ con sống qua giáp hạt.” “Bà không che mắt được tôi đâu, bà cứ liệu hồn đấy.” Hắn dọa dẫm thế thôi rồi dẫn lính đi. Hắn vẫn còn hi vọng.

Đêm ấy, bà Tâm đang say giấc thì giật mình thảng thốt. Tắc… bọp... Tắc… bọp... Chíu! Chíu!

Tiếng súng nổ chát chúa phía đồn giặc cuối làng. Sau đó là tiếng giày đinh thình thịch phía căn lầu nổi trên đầm Vịt Vàng nhà chánh Hách. Tiếng chó sủa vang theo tiếng chân rậm rịch xa dần, xa dần... Tiếng súng lại rộ lên mươi lăm phút thì tắt hẳn. Lòng bà Tâm như lửa đốt, liệu có điều gì xấu xảy ra với các anh du kích? Từ hôm thằng Minh cùng anh em du kích rút ra Bãi Giữa bà cũng đỡ bị bọn lính quấy rầy, nhưng bà đâu có hết lo. Mờ sáng hôm sau thằng Mịch chỉ huy trung đội lính pa-ti-zăng giải mười anh du kích chúng bắt được tối hôm trước về làng Hạ, trong đó có Minh là người yêu của con gái bà. Thì ra, đêm trước, nhận được mật báo thằng Mịch dẫn lính về nhậu nhẹt ở căn lầu nổi đầm Vịt Vàng mừng sinh nhật hắn, đội du kích tận dụng lúc địch sơ hở tiến về tập kích vào đồn để cướp súng giặc giết giặc. Không may, bọn chỉ điểm mật báo cho thằng Mịch dẫn lính về vây bắt. Hai bên bắn nhau một chặp nhưng lực lượng quá chênh lệch, Minh cùng một tiểu đội ở lại yểm trợ cho toàn trung đội rút lui và chịu để địch bắt. Bắt được Minh, thằng Mịch trả được hận thù luôn thiêu đốt trong lòng hắn. Đau xót quá khi thằng Mịch bắt dân làng Hạ đến bên bờ đầm Vịt Vàng chứng kiến vụ hành quyết tiểu đội du kích. Hắn cho lính trói từng người vào cọc tre. Mặt thằng Mịch đỏ gay như gà chọi, hầm hầm nói với bà con:

“Người làng Hạ nghe tôi nói đây. Đêm qua bọn Việt Minh làm chuyện dại dột tấn công vào đồn quân đội Liên hiệp Pháp, làm chuyện trứng chọi đá. Chúng không qua được mắt chúng tôi. Đây là mười tên chúng tôi bắt được. Nếu không chặn được hành động dại dột của chúng thì dân làng Hạ không bao giờ được yên đâu. Vậy theo bà con nên xử chúng như thế nào?”

Im lặng...

Nhìn Minh và anh em du kích bị trói, mặt mũi tím bầm, áo quần rách bươm vì bị tra tấn dã man, bà Tâm lòng đau như xát muối, nhưng vẫn tỏ ra bình thản. Bà phải tỏ ta cho chúng biết người dân làng Hạ không nao núng, run sợ trước sự khủng bố của quân thù. Mặt thằng Mịch lại hầm hầm, quay sang Minh:

“Trước khi về chầu Diêm vương mày có hối hận gì không?”

“Tao không hối hận khi biết việc mình làm là chính nghĩa. Chỉ có lũ Việt gian chúng mày mới phải hối hận trước cái chết phi nghĩa.” Minh giận dữ chửi thẳng mặt hắn. Thằng Mịch lại ve vãn:

“Trước mắt mày vẫn còn con đường sống nếu khuyên được cô Nguyệt trở về và chấp nhận làm vợ tao.”

Bị khoét vào chỗ đau thầm kín, Minh bật lên, dõng dạc:

“Không đời nào có chuyện ấy. Tình yêu của tao với Nguyệt là bất tử. Khi yêu nhau, bọn tao cũng dự phòng cả tình huống như ngày hôm nay.”

Tiếng súng oan nghiệt vang lên. Mười anh em du kích làng Hạ ngã xuống sau tiếng hô lẫm liệt: “Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!” Máu của họ thấm vào mảnh đất bên bờ đầm Vịt Vàng. Mười ngôi mộ của anh em được dân làng Hạ đắp cao xếp song song hướng về phía mặt trời mọc. Từ ngày ấy người làng Hạ cũng không thấy cô Nguyệt trở về. Buồn phiền trong nỗi cô đơn, bà Tâm cũng về với ông bà tổ tiên một năm sau đó.

*

Hòa bình lập lại trên miền Bắc. Cha con chánh Hách theo tây vào Nam. Cô Nguyệt vẫn biệt vô âm tín. Khi làng Hạ xây dựng hợp tác xã, người ta bàn đến chuyện khai thác đầm Vịt Vàng để phát triển kinh tế, nhưng kết quả cũng chẳng đi đến đâu do quản lí yếu kém của thời bao cấp. Đồng tiền vốn bà con dân làng bỏ ra để cải tạo đầm chẳng biết còn hay hết, giống như câu chuyện vịt vàng ngày xưa vẫn lặn mất tăm.

Ngày ấy, người làng Hạ sống yên bình trên quê hương không còn bóng giặc, có biết đâu một người con gái cô đơn, bất hạnh vẫn âm thầm, lặng lẽ bước chân trên con đường gập ghềnh, tìm cho mình một cuộc sống đầy gian truân, khổ hạnh.

Hôm nay người dân làng Hạ tổ chức tu sửa nghĩa trang liệt sĩ nhân dịp ngày kỉ niệm Thương binh Liệt sĩ 27 tháng 7. Làm xong nhiệm vụ, tổ các cụ ông cao tuổi trở về nghỉ chân ở quán nước bà Hân bên gốc đa đường vào làng. Một chiếc ô tô con màu trắng đỗ xịch trước cửa quán nước. Người đàn ông trạc tuổi tứ tuần mở cửa xe bước xuống. Trông dáng điệu ngơ ngác biết ông ta là người đầu tiên đặt chân đến vùng này. Vẻ băn khoăn, rụt rè, ông ta lễ phép hỏi bằng giọng miền Trung: “Con xin được hỏi các cụ đây có phải đường về làng Hạ?” “Phải, ông hỏi vào nhà ai ở làng Hạ?” Các cụ vui vẻ vừa trả lời vừa hỏi lại. Người đàn ông tỏ ra vui mừng hỏi thêm các cụ: “Làng Hạ có cái đầm nước gọi là đầm Vịt Vàng phải không ạ?” “Đúng rồi. Đầm Vịt Vàng có nhiều chuyện hay lắm đấy, nếu ông là nhà báo, chắc ông muốn viết về cái đầm này chăng?” Các cụ vừa trả lời vừa chỉ tay: “Đầm ở dưới kia, chúng tôi vừa sửa sang mười ngôi mộ Liệt sĩ của làng đặt cạnh đầm đấy.”

Nghe các cụ nói, người đàn ông phấn chấn: “Thưa các cụ, đó có phải là mộ của mười liệt sĩ là du kích thời chống Pháp không ạ?” “Phải rồi. Thì ra ông cũng biết nhiều chuyện của làng Hạ cách đây gần năm chục năm?” “Cảm phiền các cụ, cho con được đến thăm khu mộ đó.” Người đàn ông xúc động đề nghị.

Mười ngôi mộ đã được tôn tạo, xây cất trang trọng, ốp đá màu đen, trên mỗi tấm bia đều ghi tên tuổi, năm sinh, năm hi sinh, gắn ngôi sao vàng mang màu cờ rực rỡ. Theo lời kể của các cụ, người đàn ông được biết những ngôi mộ này lẽ ra phải được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ của xã, nhưng các gia đình có con em hi sinh ngày đó đề nghị cứ đặt mộ của họ ở chính nơi họ đã ngã xuống để ghi tạc đời đời mối thù khắc cốt ghi xương này. Người đàn ông nhìn đăm đắm vào ngôi mộ có tấm bia ghi “Liệt sĩ Trần Đức Minh, sinh năm 1928, hi sinh ngày 25-5-1953.” Ông ta quỳ phục xuống, mắt nhòa lệ, thổn thức: “Cha ơi! Hôm nay con mới được về bên cha đây, cha ơi! Cha ơ…ơi...!” Ông ta gục xuống mộ cha như đứa trẻ, miệng chỉ nấc nấc, không nói thêm được lời nào nữa. Sự ngạc nhiên chuyển sang phía các cụ ông cao tuổi làng Hạ. Liệt sĩ Trần Đức Minh còn có ai là người thân thích mà có người đến nhận cha? Các cụ hỏi người đàn ông, ông ta không biết trả lời thế nào cho phải đạo, chỉ nói chuyện dài lắm các cụ ạ, con sẽ nói cho dân làng biết. Ông ta xin phép các cụ được đến gặp chính quyền địa phương.

Tin người con trai liệt sĩ Trần Đức Minh về nhận mộ cha lan nhanh khắp làng Hạ, nhiều người không tin, nhưng là chuyện thật.

Cái đêm chia tay vội vàng năm ấy. Nguyệt đã mang trong mình giọt máu của Minh. Hôm Minh cùng đồng đội bị giặc sát hại, Nguyệt đang ở nhà bà dì trên thị trấn. Không biết chuyện gì xảy ra, ruột gan chị như lửa đốt. Hôm sau chị muốn về làng ngay, nhưng bà dì can ngăn. Đêm hôm sau chị quyết về làng dù có nguy hiểm. Nguyệt vỗ mạnh vào tấm liếp, bà Tâm hỏi vọng ra: “Ai đấy, đêm hôm khuya khoắt cũng không cho tôi được yên à?” “Con đây, con Nguyệt đây mẹ.” Nguyệt đáp, lách tấm liếp chui nhanh vào nhà. Bà Tâm rền rĩ: “Con ơi, thằng Minh người yêu con bị lính thằng Mịch sát hại rồi. Thằng Mịch dọa sẽ tìm bắt con về làm vợ hắn. Con phải đi ngay trước trời sáng, không có gì phải lo cho mẹ. Mẹ già rồi, sống chết đã có dân làng lo.” Nguyệt gục đầu vào ngực mẹ, thổn thức: “Con xin mẹ tha lỗi cho con. Nay mai yên hàn con lại về với mẹ.” Hai mẹ con dùng dằng mãi, bàn tay Nguyệt nắm lấy bàn tay xương xẩu của người mẹ già không muốn rời ra, chính bàn tay ấy đã chăm chút từng hơi thở, từng miếng cơm manh áo cho chị lớn lên thành cô thiếu nữ, thành người phụ nữ xinh đẹp, nền nã như bây giờ. Rồi hai mẹ con cũng phải cắn răng chia tay nhau, hi vọng ngày trở lại thật mong manh.

Theo lời khuyên của dì, Nguyệt lên tỉnh ở nhà người quen, kiếm kế sinh nhai. Khi đứa con trai, giọt máu của người yêu chào đời, chị xin làm vú em cho một gia đình giàu có tốt bụng, vừa nuôi con mình vừa nuôi con chủ. Năm 1954, chị theo nhà chủ di cư vào Nam vì muốn trả ơn cho ân nhân của mình, vả lại chị nghĩ chỉ hai năm tổng tuyển cử thống nhất đất nước chị lại trở về. Chị cùng người ta sống ở một thành phố miền Trung. Dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu chị cũng cố nuôi con ăn học tử tế. Thằng Nghĩa càng lớn chị càng canh cánh về nỗi không trả lời cho con về cha nó. Năm Nghĩa thi xong tú tài, chị định gửi con vào Sài Gòn học đại học thì có lệnh tổng động viên của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Không có tiền đút lót, chị đành để thằng Nghĩa vào học lớp sĩ quan quân tiếp vụ làm hậu cần cho quân đội, không phải trực tiếp cầm súng bắn vào nhân dân. Chị cũng day dứt lắm, nhưng hoàn cảnh đành phải vậy. Khi đã là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa, thằng Nghĩa càng muốn biết về người cha ruột sinh ra mình, chị chỉ chối quanh. Trong thâm tâm, chị chưa muốn cho con mình biết hiện nay nó đang là kẻ đứng bên kia chiến tuyến của cha mình, một người cha mà nó phải tự hào, và nếu biết sự thật nó sẽ có thể làm điều gì đó bất lợi cho hoàn cảnh của nó. Năm 1975, cơn lốc của lịch sử dân tộc lại lôi cuốn mẹ con chị di tản sang Mỹ sau ngày giải phóng miền Nam. Con chị là sĩ quan ngụy, chị không theo con di tản sao được. May mắn thay, sang Mỹ, thằng Nghĩa theo học ngay cái nghề mà nó yêu thích từ nhỏ, nghề nuôi trồng thủy sản.

Đất nước bước vào thời kì đổi mới, mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhiều Việt kiều có vốn, có kĩ thuật tìm cách đầu tư về nước. Rũ bỏ mặc cảm, Nghĩa tìm về Nha Trang nơi hai mẹ con từng sống. Được học ngành nuôi trồng thủy sản, Nghĩa đầu tư vốn vào ngành nuôi tôm. Lần ấy, chị nói với con: “Nhân dịp con về nước, mẹ muốn nói với con điều mẹ giấu lâu nay.” “Chuyện gì hở mẹ?” Nghĩa hồi hộp hỏi mẹ, nóng lòng muốn biết sự thật. Nhưng chị lại ngập ngừng thấy chưa nên nói ra lúc này để con an tâm vào công việc làm ăn tại quê nhà. “Thôi, con cứ về nước đi, chuyện này mẹ sẽ nói sau.”

Công việc làm ăn của Nghĩa khá thuận lợi vì ngành nuôi tôm đang khá phát triển tại Việt Nam. Nghĩa trở lại Mỹ có ý định đưa mẹ về sống tại Việt Nam, không may bà Nguyệt mắc bạo bệnh. Biết không thể qua khỏi, bà kể hết những điều thầm kín bà giấu trong lòng mấy chục năm qua. Bà Nguyệt qua đời sau đó ít ngày, Nghĩa vô cùng đau xót và hối hận không đưa được mẹ về sớm hơn để mẹ được an nghỉ vĩnh hằng trên mảnh đất quê hương.

Tìm được mộ người cha sinh ra mình, Nghĩa lại nặng lòng với quê hương. Anh muốn làm điều gì đó để đền đáp tấm lòng của làng Hạ quê cha. Bên khu mộ cha và các liệt sĩ chống Pháp là cái đầm mênh mông mặt nước vẫn đang bị bỏ hoang, cỏ lác mọc đầy. Anh xin làng Hạ cho được đầu tư vốn cải tạo đầm nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Ông trời phù hộ, công việc rất hanh thông, không ngờ con tôm nước ngọt lại hợp với nước đầm Vịt Vàng. Trúng mấy vụ tôm, lại có thị trường xuất khẩu, thu về cho làng Hạ tiền tỉ. Con tôm đầm Vịt Vàng lại được nhân ra các ao hồ khác của làng Hạ. Bao đời người làng Hạ mơ bắt được vịt vàng của ông người Tàu có cái tên Tài Lân chôn cất (theo truyền miệng của họ) mà cuộc đời vẫn đói nghèo. Bây giờ mỗi con tôm thu hoạch do mình tự nuôi trồng là một con vịt vàng.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn