Sáng tác

Quán café cổ. Truyện ngắn của Iván Mándy

Iván Mándy
Truyện 08:00 | 20/08/2025
Baovannghe.vn- Iván Mándy là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Hungary thế kỉ 20. Vannghe xin giới thiệu đến bạn đọc truyện ngắn "Quán café cổ".
aa

Iván Mándy là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Hungary thế kỉ 20. Ông sinh năm 1918 tại Budapest, nơi ông gắn bó cả đời, và đã trở thành bối cảnh chính trong hầu hết các tác phẩm của ông. Mándy đặc biệt thành công với thể loại truyện ngắn, khắc họa sâu sắc đời sống của tầng lớp tiểu tư sản thành thị và những con người sống bên lề xã.

Tác phẩm của ông pha trộn giữa hiện thực và mộng tưởng, hoài niệm và trào phúng, nổi bật như “Rạp chiếu bóng của thời xa xưa” (Régi idők mozija). Ngoài viết văn, ông còn là nhà viết tiểu luận, kịch bản phim và phê bình điện ảnh, thể thao. Năm 1993, ông được trao Giải thưởng Kossuth, giải thưởng văn học cao quý nhất của Hungary.

Và cũng chính năm này, ông được Viện Hàn lâm Mỹ thuật Hungary đề cử giải Nobel Văn học. Mándy qua đời năm 1995 tại Budapest, để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa và văn học Hungary hiện đại.

“Ba sẽ quay lại ngay thôi, con trai à…”

Người cha đứng dậy, nhẹ nhàng dùng hai ngón tay, đẩy người ra khỏi mép bàn. Trên đường bước ra, ông khẽ gật đầu chào người phục vụ. Ông dừng chân ở một chiếc bàn, cúi xuống ngó qua tờ báo của ai đó đang đọc. Cất tiếng chào một vị khách béo tốt. Vẫy tay về phía người đàn ông mặc chiếc áo gi-lê nhăn nhúm, rộng thùng thình. Cô nương bán xì gà, mang theo cái khay trước ngực, bám theo ông tới tận cửa xoay. Hẳn là cô ta đã nói gì đó, khiến người cha mỉm cười gật đầu. Rất tự nhiên, ông đưa tay nhón lấy một điếu xì gà và nhanh chóng biến mất.

Quán café cổ. Truyện ngắn của Iván Mándy
Minh họa Đặng Tiến

Chắc là ba đi gặp ai đó, cậu bé nghĩ. Ghé vào đâu đó. Hay nhìn ngó một nơi nào đó chăng.

Tàn tích của bữa sáng còn vương vãi trên bàn. Một bữa sáng no đủ. Những chiếc ly rỗng trên khay, vỏ trứng trong chén đựng. Những mẩu bơ và mứt còn sót lại.

Cô nương bán xì gà đi ngang qua bàn. Cô mỉm cười với cậu bé. Như thể cậu là một gói hàng mà người cha để lại vậy.

Từ các bàn khác, người ta bắt đầu quay lại nhìn cậu. Bà quản lí tóc muối tiêu ném cho cậu ánh nhìn khó chịu. (Hôm nay không đi học hả, nhóc con?) Người bán báo già lưng gù lướt vội qua.

“Cháu có muốn đọc gì đó không?” Người bồi bàn từ trên cao nói xuống. “Một tờ thể thao, với các tin tức về bóng đá này? Hay tạp chí điện ảnh, có hình ảnh các nữ diễn viên chăng? Ồ, có vẻ không thú vị cho lắm nhỉ. Đợi đã, chú có cái này cho cháu đây.”

Đó là cuốn sổ nhỏ bìa bọc da, trông giống như thực đơn các loại rượu vậy – thứ mà không phải vị khách nào cũng được xem.

“Đây là sổ Lưu Bút của khách hàng.” Người phục vụ lật mở cuốn sổ một cách điệu nghệ. “Ồ, chỉ một vài dòng, hay một chữ kí thôi. Của những người đã từng ghé qua đây đấy. Có thể cháu sẽ thấy vài cái tên quen thuộc... Dù sao thì, nó cũng rất đáng để xem đấy!”

Vilma Bánky.

Đó là cái tên đầu tiên. Vilma Bánky! Cô ấy đã từng ở đây? Ngay tại quán café này ư? Cô ấy đã đi lại giữa dãy bàn này. Những người phục vụ xếp hàng chào đón cô. Những người bồi bàn và cả khách hàng nữa. Rồi cô ấy sẽ ngồi xuống... có thể là chiếc bàn kia chẳng hạn. Người phục vụ cúi chào, và đưa cho cô cuốn sổ này. Cô ấy đã trở về từ nước Mỹ để thăm quê hương. Khi đó, phim của cô đang được công chiếu ở tất cả các rạp. Vì thế, cô đã về thăm nhà và ghé qua quán café này chăng. Bên cạnh cô là một cái tên khác. Rod La Rocque. Chồng cô. Vậy là cô không đến đây một mình, cô đã đưa chồng đi cùng. Vilma Bánky và Rod La Rocque tay trong tay sánh bước vào quán café này.

Emil Jannings.

Trong một bộ phim, ông ấy vào vai một người gác cửa bị sa thải, sau đó lang thang trên đường phố.

Những cái tên, tên và tên nối tiếp. Một số đọc mãi không ra. Nhưng tên của Franz Lehár thì rất rõ nét. Có cả ngày tháng ở bên dưới – ngày mà ông ấy đã tới đây. Ba của cậu có biết ông Lehár, thời ông còn là nhạc trưởng của một ban nhạc quân đội.

Cậu bé ngước lên nhìn. Xung quanh chỉ còn những chiếc ghế trống. Một tờ báo bị bỏ lại trên bàn. Một chiếc áo khoác vắt sau lưng ghế. Chiếc áo khoác nhàu nhĩ, tay áo buông thõng. Cậu bé đứng dậy, và bước tới đó. Trong túi áo có một đầu lọc thuốc lá đã đen sạm. Cậu rút ra xem và đặt nó trở lại. Vé xe điện rơi ra khỏi túi, cùng vài mảnh giấy nhỏ.

Cậu muốn khám phá quán café này.

Cậu đi qua bàn bi-a. Những quả bóng màu trắng và xanh lá chậm rãi lăn vào cái lỗ. Chúng lăn rất chậm và không phát ra âm thanh nào cả.

Cậu bé trở lại với cuốn “Sổ Lưu Bút”, kẹp nó dưới nách và ngồi xuống một cái bàn khác.

Cậu cố tìm cái tên của Vilma Bánky, nhưng không thấy nữa. Rõ ràng nó đã ở đó, ngay trang đầu tiên mà. Cái tên đầu tiên ấy. Bây giờ nó đã được thay thế bằng những nét chữ nguệch ngoạc, không thể đọc nổi. Như thể có kẻ nào, trong lúc cậu không để ý, đã cố tình làm hỏng cả cuốn sổ.

Franz Molnár.

Đó quả là cái tên rõ ràng dễ đọc, ở một trang khác. Ồ, Franz Molnár. Molnár lão già tốt bụng! Ba của cậu cũng quen ông ấy đấy. Họ đã từng cùng làm cho một tờ báo. Hồi đó, Molnár hay viết những mẩu truyện ngắn nhẹ nhàng, dí dỏm cho thiếu nhi.

“Không ai viết cho thiếu nhi hay được như ông ấy đâu!”

Người cha, như thể đang ngồi ở một cái bàn nào đó phía xa, nói vọng lại. “Giá mà ông ấy tiếp tục say mê với thể loại đó. Còn mấy vở kịch mà ông ấy viết sau này... chỉ là đồ kiếm cơm rẻ tiền thôi!”

Cậu bé ngồi xuống một dãy ghế phía sau.

Còn những người khác thì sao? Những vị khách. Có thể họ đã lên trên lầu. Hoặc đang núp trong phòng chơi bài. Phải rồi, có lẽ những gã khách quen của quán đã chui vào ẩn náu trong đó chăng.

Thế là cậu bé bước lên lầu. Những chiếc bàn nhỏ với ghế được xếp gọn lại. Tấm thảm cuộn tròn như đang chờ người dọn dẹp.

Cậu lẻn vào một gian phòng nhỏ bên cạnh.

Đây là chỗ Ngài Biên tập viên từng ngồi. Ngài Biên tập nghiêm nghị, đáng kính, ai cũng nể sợ.

Một người tóc trắng như tuyết, đeo kính, với đống bản thảo khổng lồ trước mặt. Chẳng ai dám lại gần. Trừ khi được ông ta vẫy tay gọi mà thôi.

“Ông ấy chẳng bao giờ cất tiếng gọi đâu,” người cha nói. “Ông ấy chỉ vẫy tay ra hiệu. Nhưng khi ông ấy vẫy, ai cũng sẽ hiểu ngay, cả khi họ đang quay lưng lại với ông ấy, hoặc ngồi ở góc quán xa nhất đi nữa. Bất kể là ai, họ cũng sẽ đứng dậy và bước đến bàn của Biên tập viên. Và toàn bộ quán café sẽ dõi theo từng bước chân họ, khi họ đi tới cái bàn đó đấy.”

Lúc này, cậu bé đang ngồi vào đúng cái bàn đó. Từ đây nhìn xuống tầng trệt rất rõ. Một bên hướng ra đại lộ, còn lại là hướng ra một con phố dài và hẹp. Có thể thấy những bốt điện thoại đứng lẻ loi trầm tĩnh. Phòng ăn rộng lớn chìm vào bóng tối. Một cầu thang lớn là lối dẫn xuống đó.

Cậu bé cúi người nhìn xuống khoảng tối sâu thăm thẳm. Rồi cậu giơ ngón tay, vẫy về phía một chiếc bàn. Một cái bóng nhô lên từ đó, và bước lên lầu. Lúc này cậu bé vẫy tay theo các hướng khác nhau trong quán. Đầu tiên là về phía đại lộ, sau đó theo hướng các con phố nhỏ.

Cậu cảm thấy chiếc bàn mình ngồi được vây quanh bởi những nhà văn trẻ và già khác nhau. Những người đã nổi danh khắp thế giới và cả những kẻ nghiệp dư mới vào nghề.

Cậu chạy về phía nhà vệ sinh.

Cậu vén rèm sang một bên, và bóng tối nuốt chửng lấy cậu. Tay cậu lần theo bức tường, mò tìm công tắc. Có một tiếng tách vô vọng, nhưng không có ánh sáng.

Những đốm trắng lờ mờ hiện lên trong bóng tối. Bồn rửa mặt, bồn tiểu, gạch ốp tường. Hai buồng nhỏ có cửa, giống hệt hai phòng giam vậy.

Ai có thể tụ bạ ở đó nhỉ? Có vẻ như có kẻ cũng đang đứng trước bồn tiểu. Biên tập viên trực ca đêm chẳng hạn, họ lang thang trên phố như những toa tàu điện cũ rích. Sau giờ làm việc, họ sẽ tạt thẳng tới quán café này. Gọi món giăm bông và trứng ốp la. Và trong lúc chờ đồ ăn, họ leo lên đây, nửa tỉnh nửa mê, với điếu xì gà lơ lửng trên khóe miệng. Cậu bé còn mơ hồ nghe thấy cả tiếng kẽo kẹt và tiếng rao khàn đục của những tay bán hàng rong đường dài.

Và những kẻ lang thang lúc nửa đêm, những kẻ phun ra như thác đổ vậy! Hoặc có khi chỉ là dòng nước nhỏ tí tách. Có người lại chỉ đứng im ở đó, nhìn chằm chằm vào bức tường.

Cậu bé bước vào một buồng vệ sinh khác, và đóng chốt cửa lại. Cậu không ngồi xuống, mà đứng nhìn ánh sáng xám xanh phía trên đầu. Có thứ ánh sáng kì lạ đang cuộn xoáy ở đó. Ánh sáng ư? Hay là khói?

Cậu bé quay lại bồn rửa mặt.

Ba của cậu thường rửa tay mà không cần nhìn gì cả. Nhưng có những người cầu kì y như một nghi thức thanh tẩy vậy. Và lại có kẻ thậm chí không thèm mở vòi nước, mà chỉ im lặng đứng nhìn khuôn mặt của mình trong gương.

Quả là một hang động của sự bình yên và tĩnh lặng.

Chỉ trừ đôi lúc có ai đó bắt đầu ho. Những tiếng ho khàn đục và bỏng rát đang muốn bật tung những lớp đờm cũ, như khai quật các tầng địa chất từ thời tiền sử. Rồi những người khác cũng bắt đầu ho, cho đến khi cả không gian trở thành một dàn đồng ca sặc sụa.

Cậu bé tiếp tục bước đi, khám phá các hành lang quanh co.

Một căn phòng khác có rèm che. Khăn trải bàn và khăn ăn vứt ngổn ngang thành đống. Họ đã gom lại những chiếc khăn trải bàn nhàu nhĩ, ố màu để mang đi giặt. Bao nhiêu là vết bẩn! Những đốm nâu của nước sốt… rượu vang đỏ, cà phê đen. Tàn xì gà nhòe nhoẹt.

Thậm chí, biết đâu có gã khách nào đó đang cuộn mình nằm trong mớ hỗn độn đó nữa cơ. Một gã vô sỉ, luộm thuộm đã góp phần làm dơ hơn chốn ấy. Chính hắn là kẻ đã làm đổ nước sốt lên khăn trải bàn.

Họ đã gói gã láo xược đó thành một bọc. Một bọc đầy đồ vải bẩn cần mang đi giặt.

Giữa trung tâm của hành lang, bàn ghế bị dồn lại thành một khối khổng lồ. Cứ như thể tất cả đồ đạc đã bị đẩy đến đây sau một thảm họa nào đó. Giờ chúng im lìm đứng đó, như bị xúc phạm, bị bỏ lại phía sau. Những chiếc bàn phủ nỉ xanh nhỏ xíu. Có lẽ đến từ phòng chơi bài. Và những chiếc ghế lưng cao, mảnh khảnh kia chắc từng thuộc về một câu lạc bộ nào đó.

Ngày trước, ở đây từng có một câu lạc bộ. Câu lạc bộ của những ông chủ rạp chiếu bóng.

Phía trên là một bức ảnh, hình người đàn ông có ria mép, cổ áo dựng đứng đang hút xì gà. Ánh mắt ông ta trĩu nặng lo âu. Có lẽ là chủ một rạp chiếu nào đó. Những chủ rạp chẳng bao giờ xem bộ phim nào của họ đâu. Họ chỉ lướt vội qua sảnh với chiếc mũ trên đầu. Nhưng người này thì không đội mũ. Có lẽ rạp chiếu phim của ông ta đã phá sản. Ông ta châm một điếu xì gà cuối cùng, rồi sau đó...

Nhưng biết đâu đây cũng từng là phòng đánh bài. Kẻ chơi bài ngồi quanh những chiếc bàn phủ nỉ xanh. Có gã đã ngồi tịt ở đó suốt cả tuần. Ban đầu, hắn chỉ định ghé qua chơi một lát, rồi mắc kẹt luôn tại trận. Lúc đầu, hắn ta vẫn chạy xuống cầu thang để gọi điện thoại. “Một tiếng nữa anh sẽ về, cùng lắm là tiếng rưỡi nữa thôi.” Hắn còn chạy xuống để gọi thêm vài cuộc, rồi sau đó không còn nhớ nghĩ đến điều gì trên đời nữa.

Cậu bé bước xuống cầu thang từ hành lang tầng trên. Cậu nghiêng đầu, chắp tay sau lưng, ra vẻ như đang gia nhập vào nhóm người ấy. Nhưng những kẻ còn lại trong nhóm đã bỏ quên cậu phía sau.

Trong bếp, những chiếc vạc khổng lồ đứng đó. Bếp nấu tối và sâu hút. Dao và muỗng nằm rải rác trên mặt bàn. Một cuốn sách dạy nấu ăn và chiếc tạp dề trắng. Có lẽ ai đó vừa mới cởi ra thôi. Tiếng người xì xầm gì đó với đầu bếp. Hình như là phàn nàn về đồ ăn. Đầu bếp không nói một lời. Chỉ lặng lẽ tháo mũ, tháo tạp dề, và bước ra ngoài. Nhưng ông ta không đi một mình. Tất cả đầu bếp khác, bếp phó, bếp phụ và đội rửa bát đều đi theo ông ta. Chỉ còn những chiếc vạc ở lại, hoàn toàn im lặng.

Phòng ăn đã được dọn sẵn. Khăn trải bàn trắng muốt, đĩa, dao nĩa bạc. Một chiếc khăn ăn xếp hình vương miện trắng đặt trên đĩa. Gia vị trong các lọ nhỏ. Lọ muối, hạt tiêu, gạt tàn, tăm xỉa răng.

Nhà hàng đang đói những thực khách. Nó nằm đó, như thể bị phủ lên một tấm lưới màu xám, gần như biến mất trong bóng tối dày đặc, ánh sáng yếu ớt không đủ lực xuyên qua phía dưới cầu thang đá cẩm thạch. Thảm đỏ phủ trên cầu thang, thảm đỏ trong phòng ăn. Nhưng tất cả đều nhạt nhòa trong ánh sáng nhập nhoạng màu xám tro.

Cậu bé đi dọc theo những dãy bàn. Cậu liếc nhìn lên các hành lang trên tầng. Cậu như thấy bóng người đang ẩn hiện trên lan can ban công, mệt mỏi vẫy tay xuống vực sâu bên dưới.

Khối lập phương tối tăm của bể cá. Đèn đã tắt từ lâu, nhưng nước vẫn còn đó. Nước đục ngầu, ứ đọng. Ánh mắt cảnh giác, bất động của một con cá. Ánh mắt bất động trong thứ chất lỏng như thuộc về thế giới bên kia vậy.

Cậu bé ngồi xuống một cái bàn, trên mép ghế, như thể sợ bị ai đó khiển trách. Rồi cậu chuyển sang một cái bàn khác, nơi cậu có thể ngồi thoải mái hơn. Hơi do dự. Cậu cầm dao, gõ nhẹ vào mép đĩa.

“Này, bồi bàn!”

Giọng cậu vang lên trong phòng ăn. Rồi im bặt.

Cậu đứng dậy, như thể định chuyển sang cái bàn khác. Cậu đứng dưới chân cầu thang, đưa mắt nhìn quanh quán café vắng tanh. Những buồng điện thoại, phòng chơi bài… cũng thế.

Bất chợt, cầu thang bừng sáng, hệt như một cây cầu thần tiên lộng lẫy.

Cậu bé bước lùi lại, tay bám chặt vào mép bàn.

Người bước trên đỉnh cầu thang, đội chiếc khăn xếp ánh bạc, chính là Vilma Bánky! Cô kiêu hãnh ngẩng cao đầu, mỉm cười chầm chậm bước xuống. Sánh vai bên cô là người chồng, Rod La Rocque. Mặc chiếc áo đuôi tôm, Rod La Rocque vẫy tay chào một cách miễn cưỡng. Emil Jannings béo tốt vội vã đi trước, như thể gã ta không muốn nhìn thấy họ vậy. Nhưng Harold Lloyd, với cặp kính đặc trưng, tiến lên từ phía sau để khoác tay Vilma Bánky, và cùng cô sải bước xuống cầu thang.

Franz Lehár xuất hiện trong trang phục màu đen với găng tay trắng muốt. Lehár là người mà ba từng quen, thuở ông còn chỉ huy các ban nhạc quân đội. Franz Molnár thì đeo kính một mắt, tay đút túi quần, đứng nghiêng người bên lan can. Có lẽ ông muốn nhường đường cho người đàn ông tóc bạc, đeo kính, đang ôm một chiếc cặp dưới cánh tay kia.

Chính là Biên tập viên! Các nhà văn vây quanh ông ấy. Những cây bút từng được ông vẫy tay gọi đến, và cả những người khát khao được ông vẫy, dù chỉ một lần trong đời. Những nhà văn lừng danh khắp thế giới, và cả những kẻ chẳng được ai biết đến, ngay trong quán café này.

Cánh nhà báo chạy xuống cầu thang rần rần. Những tay phóng viên lẫy lừng, đầu có sỏi, hai tay rắn rỏi như hai nắm đấm, sẵn sàng thụi vào bất cứ nơi đâu, chẳng cánh cửa nào khép lại nổi với họ. Và còn cả những kẻ chỉ viết nguệch ngoạc được đôi dòng, thậm chí có kẻ chẳng viết nổi mấy chữ. Những kẻ bợ đỡ nịnh hót bằng bia và xì gà. Những tay bồi bút báo lá cải, những kẻ tống tiền nhỏ bé, nhớp nhúa.

Nguyễn Thị Thùy Linh

Dịch từ bản tiếng Anh

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn