Như một thông lệ, nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo (Thụy Điển). Trong bài nhận giải, ông nói nhiều hơn về những thôi thúc từ phía bên trong, cũng như rất nhiều trải nghiệm ông đã kinh qua trong việc sáng tạo văn xuôi cũng như kịch nghệ.
*
Có một câu chuyện xảy ra không hề báo trước với bản thân tôi ở độ trung học, khi một giáo viên muốn tôi đọc to lên một văn bản. Thế nhưng không biết từ đâu tôi bị khuất phục bởi nỗi sợ hãi bất ngờ xâm chiếm lấy mình. Như thể tôi đã biến mất trong nỗi sợ ấy và đó cũng là tất cả những gì tôi làm: Khi ấy tôi đã đứng dậy, chạy ra khỏi lớp.
Tôi thấy ánh mắt to tròn của các bạn học và của giáo viên dõi sát theo mình.
Tôi sau đó cố gắng giải thích hành vi kì lạ nói trên bằng cách biện hộ rằng mình phải đi vệ sinh. Tôi có thể thấy trên các khuôn mặt của người tiếp nhận rằng họ không tin được tôi. Có lẽ họ nghĩ tôi điên, và đúng như vậy, tôi đã ngày càng trở nên điên loạn.
Jon Fosse đọc diễn từ nhận giải tại Oslo. Ảnh Fredrik Persson. |
Nỗi sợ đọc to đã theo sát tôi trong suốt nhiều năm. Thời gian trôi qua, tôi mới lại có can đảm thực hiện điều này, vì bản thân sợ sệt việc ấy, nên có người tin tôi và không hỏi nữa, những cũng có người nghĩ tôi chỉ đang đùa cợt kiểu này hay là kiểu khác.
Tôi đã học được điều gì đó quan trọng về chính con người từ trải nghiệm này.
Cũng như nhiều điều khác nữa.
Vâng, có thể một điều gì đó đã giúp cho bản thân tôi có thể đứng đây và đọc to rõ cho mọi người vào ngày hôm nay. Giờ đây tôi không còn chút sợ hãi thật sự nào nữa.
Tôi vừa đọc cái gì thế này?
Theo một cách nào đó, nỗi sợ hãi như thể đã lấy cắp đi ngôn ngữ của tôi, và tôi phải lấy lại nó, và có thể nói là đúng như vậy. Và khi tôi làm điều đó, đó không phải là ngôn từ của ai đó khác mà là của bản thân tôi.
Vì thế tôi bắt đầu viết văn, thơ và truyện ngắn cũng từ lúc đó.
Và tôi phát hiện ra rằng làm như vậy mang lại cho tôi cảm giác an toàn, mang lại cho tôi một sự kháng cự với nỗi sợ hãi.
Theo một cách nào đó, tôi đã tìm thấy một nơi sâu thẳm ẩn bên trong mình chỉ là chính tôi, và từ nơi đó tôi đã viết ra những gì thuộc riêng về mình.
Bây giờ, khoảng năm mươi năm sau, tôi vẫn ngồi viết - và tôi vẫn viết từ nơi bí mật sâu thẳm ở đó, một nơi mà tôi thực lòng không biết quá nhiều ngoài sự tồn tại của nơi chốn ấy.
Nhà thơ Na Uy - Olav H. Hauge đã viết một bài thơ trong đó ông so sánh hành động viết lách với việc trở thành một đứa trẻ nhỏ, khi nó dựng túp lều lá trong một khu rừng rồi bò vào đó, thắp nến, ngồi yên và thấy an toàn trong những buổi tối mùa thu không trăng.
Tôi nghĩ đây là một hình ảnh đẹp về cách mà bản thân tôi trải nghiệm việc viết. Giờ đây chính tôi cũng thế, hệt như năm mươi năm trước.
Và tôi đã học được nhiều điều hơn, tôi học được rằng, ít nhất là đối với tôi, có sự khác biệt tương đối to lớn giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ văn học.
Ngôn ngữ nói thường là cách thức giao tiếp độc thoại, rằng điều gì đó phải như thế này hoặc như thế kia, hoặc nó là cách giao tiếp mang tính tu từ của một thông điệp cần có được sự thuyết phục hoặc là xác tín.
Ngôn ngữ văn học thì không như thế – nó không mang tính truyền tải thông tin, nó mang trong mình nhiều ý nghĩa hơn đơn thuần giao tiếp. Nó có sự tồn tại riêng.
Và theo nghĩa đó, một tác phẩm hay và tất cả các loại thuyết giảng rõ ràng là rất tương phản, cho dù loại văn bản sau mang tính tôn giáo hay là chính trị hay điều gì khác.
Vì sợ đọc to, nên tôi bước vào trong nỗi cô đơn cũng như cuộc sống của một người viết – và tôi đã ở trong nó kể từ lúc đó.
Tôi viết rất nhiều văn xuôi cũng như kịch nghệ.
Và tất nhiên, thứ định hình kịch là các lời thoại, trong đó đối thoại, trò chuyện hoặc những nỗ lực phát ra tiếng nói, hoặc thậm chí là độc thoại, luôn là vũ trụ tưởng tượng, là một phần của cái gì đó vốn không tồn tại. Nó không mang nghĩa khẳng định chính bản thân mình, nhưng nó có bản thể riêng và nó tồn tại.
Và khi nói đến văn xuôi, Mikhail Bakhtin (1) đã đúng khi ông cho rằng phương thức diễn đạt thông qua kể chuyện có đến tận hai giọng nói ẩn chứa trong đó.
Nói một cách đơn giản: đó là giọng nói của người nói - người viết và của người được đề cập. Những cá thể này hòa quyện vào nhau đến mức ta không thể biết là giọng của ai.
Nó chỉ đơn giản trở thành một giọng nói kép - và luôn hiện diện trong hành động viết cũng như logic ẩn bên trong mình.
Có thể nói rằng mỗi một tác phẩm mà tôi viết ra đều có vũ trụ và thế giới riêng. Đó là nơi chốn tương đối mới mẻ cho mỗi vở kịch, mỗi cuốn tiểu thuyết.
Nhưng một bài thơ hay, bởi vì tôi viết rất nhiều thơ ca, cũng là một vũ trụ riêng – nó liên quan đến chính bản thân mình. Ai đó đọc nó có thể bước vào vũ trụ riêng biệt của bài thơ ấy. Vâng, nó giống một kiểu hiệp thông hơn là giao tiếp.
Trên thực tế, điều này có lẽ đúng với mọi thứ mà tôi đã viết.
Có một điều chắc chắn là tôi chưa bao giờ viết để thể hiện bản thân như người ta nói, mà chỉ là để thoát khỏi chính bản thân mình.
Rằng cuối cùng tôi đã trở thành một nhà viết kịch – vâng, tôi có thể nói gì về điều đó?
Tôi viết tiểu thuyết, làm thơ và không hề muốn viết cho sân khấu, nhưng theo thời gian, tôi cũng nhảy sang cả lĩnh vực này - như một phần của sáng kiến được nhà nước tài trợ để viết thêm nhiều vở kịch Na Uy mới - tôi được đề nghị những gì mà đối với tôi, một tác giả nghèo khi ấy, là số tiền để viết nên cảnh mở đầu của một vở kịch, và cuối cùng là hoàn chỉnh nó, vở kịch đầu tiên và vẫn được trình diễn nhiều nhất của tôi, Someone Is Going to Come (Ai Đó Sẽ Đến).
Lần đầu mà tôi viết kịch hóa ra lại là bất ngờ rất lớn trong đời làm văn. Bởi vì trong cả văn xuôi cũng như thơ ca, tôi đã cố gắng viết những điều mà thông thường - bằng ngôn ngữ nói thường ngày - không thể diễn tả bằng lời. Vâng đúng vậy. Tôi đã cố gắng bày tỏ điều không thể nói, vốn được coi là lí do để giải Nobel Văn chương được trao cho tôi.
Những thứ quan trọng trong cuộc đời này không thể nói ra, mà chỉ diễn tả thông qua việc viết. Đó là câu nói nổi tiếng của Jacques Derrida (2).
Vì vậy, tôi cố viết ra những “bài phát biểu” hoàn toàn câm bặt.
Và khi viết kịch, tôi thường sử dụng lời nói thầm thì của những con người hoàn toàn im lặng, theo cách tương đối khác biệt so với văn xuôi cũng như thơ ca. Tất cả những gì mà tôi phải làm là viết ‘dừng lại’, và “bài phát biểu” theo kiểu im lặng hiện diện ở đó. Và trong rất nhiều vở kịch, từ tạm dừng chắc chắn là từ quan trọng nhất và được sử dụng nhiều nhất - tạm dừng lúc lâu, tạm dừng khoảng ngắn hoặc chỉ đơn giản là tạm dừng thôi.
Những khoảng dừng này có thể chứa đựng rất nhiều hoặc là rất ít ý nghĩa. Có điều gì đó không thể nói được, điều gì đó không muốn nói ra, hoặc tốt nhất là không nói gì cả.
Tuy nhiên tôi khá chắc rằng điều được nói lên nhiều nhất qua những khoảng dừng là sự im lặng.
Trong văn xuôi của tôi, có lẽ tất cả những lần lặp lại đều có chức năng tương tự như những khoảng dừng trong các vở kịch. Hoặc có lẽ đó là cách mà chính tôi nghĩ, rằng trong khi kịch có lời nói thầm, thì tương quan lại sẽ có ngôn ngữ theo kiểu nào đó mang tính câm lặng đằng sau từ ngữ trong các tiểu thuyết, và nếu tôi muốn trở thành một người viết tốt, thì lời thầm thì phải được hiển hiện, chẳng hạn như trong Septology (Bộ bảy), 1200 các trang sách có lẽ chỉ là một biểu hiện bằng văn bản của một mệnh đề, rằng là Asle đầu tiên và Asle khác có thể là cùng một người.
Sách của Fosse được trưng bày tại một hiệu sách. |
Nhưng một nơi câm bặt, hay một ngôn ngữ thầm lặng, thường có vai trò phản ánh tổng thể của một tác phẩm. Cho dù đó là một cuốn tiểu thuyết hay một vở kịch, bản thân các bộ phận không hề quan trọng mà là tổng thể, điều đó cũng có nghĩa là trong từng chi tiết nhỏ nhất – hoặc là tinh thần tổng thể - phải có đầy đủ chiều kích, từ gần và xa.
Bạn nghe thấy gì nếu lắng nghe kĩ?
Là sự im lặng.
Và như người ta đã nói, chỉ trong im lặng bạn mới có thể nghe được giọng nói của Chúa.
Có lẽ là thế.
Bây giờ quay trở lại Trái đất, tôi muốn đề cập đến một điều khác mà việc viết kịch mang lại cho tôi. Viết văn là nghề cô đơn, như tôi đã nói, và cô đơn là điều rất tốt – miễn là con đường quay lại với những người khác vẫn còn rộng mở, điều này cũng trích từ một bài thơ của Olav H. Hauge.
Và điều thu hút khi lần đầu thấy tác phẩm của mình được diễn trên sân khấu lớn, vâng, điều đó hoàn toàn trái ngược với sự cô đơn, đó là một sự đồng hành, vâng, để sáng tạo nghệ thuật qua việc chia sẻ nghệ thuật - điều đó mang lại cho tôi cảm giác hạnh phúc và rất tuyệt vời.
Cái nhìn sâu sắc này đã theo tôi kể từ đó, và tôi tin rằng nó đã đóng một vai trò quan trọng khiến tôi không chỉ kiên trì, với một tâm hồn tương đối yên bình mà còn cảm thấy một loại hạnh phúc ngay cả khi những vở kịch không quá hay ho.
Sân khấu thực sự là chuỗi hoạt động lắng nghe theo kiểu sâu sắc - đạo diễn phải, hoặc ít nhất nên, lắng nghe kịch bản, lắng nghe cách các diễn viên cố thấu hiểu nó, lắng nghe cách họ giao tiếp và cũng là sự lắng nghe toàn bộ buổi diễn.
Và đối với tôi, việc viết là để lắng nghe: khi tôi viết, tôi không bao giờ chuẩn bị, tôi không lập kế hoạch gì cả, tôi chỉ lắng nghe và viết ra thôi.
Vì vậy, nếu tôi nên sử dụng một phép ẩn dụ cho hành động viết thì đó phải là khái niệm lắng nghe.
Vì vậy, gần như không cần phải nói rằng chữ viết gợi nhớ đến âm nhạc. Và vào một thời điểm nhất định, ở tuổi thiếu niên, tôi ít nhiều đã trực tiếp chuyển từ việc chỉ gắn bó với âm nhạc sang viết lách. Tôi thực sự đã ngừng hoàn toàn việc chơi nhạc hay nghe nhạc lại, và bắt đầu viết, và trong bài viết của mình, tôi đã cố gắng tạo ra điều gì đó giống với những gì tôi đã trải nghiệm khi có âm nhạc. Đó là những gì tôi đã làm lúc đó, cũng như ngay cả thời gian sau này.
Một điều nữa, có lẽ hơi lạ, là khi tôi viết, đến một lúc nào đó tôi luôn có cảm giác rằng văn bản đó đã được viết rồi, nó ở đâu đó ngoài kia chứ không phải là tận bên trong tôi, và rằng tôi chỉ cần viết nó ra trước khi văn bản biến mất.
Thỉnh thoảng tôi có thể làm điều đó mà không cần thực hiện thay đổi nào cả, đôi khi tôi phải tìm kiếm văn bản bằng cách viết lại, cắt gọt, chỉnh sửa, và cố gắng đưa cả văn bản đã được viết sẵn từ bên trong mình ra với thế giới.
Và tôi, người không muốn viết cho sân khấu, cuối cùng chỉ làm việc đó trong khoảng mười lăm năm. Và những vở kịch tôi viết thậm chí còn được trình diễn, vâng, theo thời gian, đã có rất nhiều vở kịch được dàn dựng mới ở nhiều quốc gia.
Tôi vẫn không tin điều đó hiện đang xảy ra.
Cuộc sống thật khó đoán định.
Cũng như tôi không thể tin mình đang đứng đây để cố gắng nói vài lời nào đó về việc viết lách là gì, liên quan đến việc tôi được trao giải Nobel Văn chương.
Việc tôi được trao giải này, theo như tôi hiểu, có liên quan đến cả kịch nghệ cũng như văn xuôi mà mình đã viết.
Sau nhiều năm hầu như chỉ viết kịch, tôi đột nhiên cảm thấy như thế là đủ, vâng, quá đủ, và tôi quyết định ngừng viết thể loại nói trên.
Nhưng việc viết lách đã thành thói quen và tôi không thể nào sống nếu thiếu đi nó – có thể giống như Marguerite Duras đã từng đặt tên, ta có thể gọi nó là một căn bệnh – nên tôi quyết định quay trở lại nơi mọi chuyện bắt đầu, tôi viết văn xuôi và các thể loại khác, như cách mà tôi đã làm ít nhất trong một thập kỉ trước khi đã ra mắt với tư cách là nhà viết kịch.
Đó là điều tôi đã làm trong mười lăm năm qua. Khi tôi bắt đầu nghiêm túc đối với văn xuôi thêm một lần nữa, tôi đã không chắc mình còn có thể làm được hay không. Tôi viết bộ Trilogy (Bộ ba) trước tiên - và khi tôi được trao giải Văn học của Hội đồng Bắc Âu cho bộ sách đó, tôi coi đó như một sự xác nhận tuyệt vời rằng tôi cũng có gì đó để mà cống hiến đứng dưới tư cách người viết văn xuôi.
Sau đó tôi viết Septology (Bộ bảy).
Và trong quá trình viết bộ sách này, tôi đã trải qua một số khoảnh khắc mà có thể nói là hạnh phúc nhất đời mình, ẩn dưới vai trò của một nhà văn, chẳng hạn như khi một Asle này tìm thấy một Asle khác đang nằm trên tuyết và cũng nhờ đó mà đã cứu sống anh ta. Hoặc cái kết, khi Asle đầu tiên, nhân vật chính yếu, bắt đầu hành trình sau rốt của cuộc đời mình, trên một chiếc thuyền, dùng để đánh cá, cùng với Åsleik, người bạn thân nhất và là duy nhất, để đón Giáng sinh cùng với em gái của Åsleik.
Tôi không định viết một cuốn có dung lượng dài, nhưng những dòng chữ ít nhiều tự nó viết ra, và rồi trở thành hình dáng hiện nay, và tôi viết nhiều phần trôi chảy đến mức mọi thứ đều trở nên ổn liền ngay lập tức.
Và riêng tôi nghĩ đó chính là lúc mà tôi gần nhất với thứ người đời gọi là hạnh phúc.
Toàn bộ Septology chứa đựng kí ức như các tác phẩm mà tôi đã viết, nhưng lại được nhìn dưới một góc độ tương đối khác biệt. Việc không có dấu chấm nào suốt cuốn sách không phải là một phát minh đến từ nơi tôi. Tôi chỉ viết ra chính nó như vậy, liền suốt một mạch, không cần dừng lại.
Tôi đã từng nói trong một cuộc phỏng vấn rằng viết là một kiểu cầu nguyện. Và tôi thấy xấu hổ khi thấy nó được in ra. Nhưng sau này tôi được an ủi phần nào khi đọc rằng Franz Kafka cũng đã nói như vậy. Vậy thì rốt cuộc điều gì thật sự quan trọng?
Những cuốn đầu tiên mà tôi viết ra không được đánh giá quá cao, nhưng tôi quyết định sẽ không lắng nghe những lời phê bình, tôi chỉ tin tưởng vào bản thân thôi, và vâng, hãy kiên trì với công việc của mình. Và nếu tôi không làm điều đó, thì tôi đã ngừng viết lách sau cuốn Raudt, svart (Đỏ, Đen) đầu tay ra mắt vào hơn bốn mươi năm trước.
Sau đó, tôi toàn nhận được những đánh giá tốt và thậm chí còn bắt đầu nhận giải thưởng nữa – tôi nghĩ điều quan trọng nhất là phải tiếp tục với suy nghĩ này, bởi vì nếu tôi không lắng nghe những đánh giá tệ, tôi cũng sẽ không để thành công ảnh hưởng đến mình. Tôi sẽ bám chặt vào các văn bản, neo lại và níu giữ mình vào chính những gì tôi đã tạo ra.
Và tôi nghĩ đó là điều tôi đã làm được, và tôi thực sự tin rằng tôi sẽ tiếp tục làm điều đó ngay cả sau khi đã nhận được giải Nobel.
Khi được thông báo trao giải Nobel Văn học, tôi đã nhận được rất nhiều email và lời chúc mừng, tất nhiên là tôi hạnh phúc. Hầu hết những lời chúc mừng đều rất đơn giản cũng như vui vẻ, nhưng có người viết rằng họ đang hét lên với vui mừng, có người thì lại cảm động đến rơi nước mắt. Điều đó thực sự làm xao động tôi.
Rất nhiều những vụ tự tử xuất hiện trong các tác phẩm mà tôi viết ra. Nhiều hơn những gì tôi muốn nghĩ tới. Tôi sợ rằng bằng cách này mình ít nhiều đã giúp hợp pháp hóa hành động tuyệt vọng. Vì vậy, điều khiến cho tôi cảm động vượt trên mọi thứ là những người nói các tác phẩm này đã cứu mạng họ.
Ở một khía cạnh nào đó, tôi luôn biết rằng viết lách có thể cứu được mạng sống, và có lẽ nó cũng đã cứu tôi. Nếu như những gì tôi viết giúp neo ai lại với cuộc đời này, thì ngoài nó ra không thứ gì khác có thể khiến tôi hạnh phúc hơn nữa.
Cảm ơn Viện Hàn lâm Thụy Điển đã trao cho tôi giải Nobel này.
Và cũng xin cảm ơn Chúa.
NGÔ THUẬN PHÁT chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh của May-Brit Akerholt
-------------------------------------------
1. Mikhail Mikhailovits Bakhtin (1895 – 1975) là một trong những nhà triết học, mĩ học, văn hóa học và nghiên cứu văn học lỗi lạc nhất của thế kỉ XX. Trong di sản lí luận văn học phong phú, nội dung độc đáo nhất, chắc chắn, thuộc về lí thuyết thể loại văn học của ông. M. Bakhtin cho rằng: “Không thể có tác phẩm nằm ngoài thể loại. Tác phẩm chỉ tồn tại trong một hình thức thể loại cụ thể”
2. Jacques Derrida (1930 - 2004) là một nhà triết học người Pháp. Ông đã phát triển lý thuyết về giải cấu trúc (déconstruction), gắn với triết học hậu hiện đại.
Nguồn VNQĐ
*Tên bài viết do Vannghe đặt