Sáng tác

Mảnh đất đầu làng. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Súc

Nguyễn Huy Súc
Truyện 07:29 | 09/09/2025
Baovannghe.vn- Bà giáo Ngát hết ra sân rồi lại vào nhà ngả lưng trên chiếc ghế nửa nằm nửa ngồi. Bà đang nóng lòng đợi con trai. Trước khi nó đi công tác, bà đã bàn với vợ chồng nó. Nó bảo: “Mẹ nghĩ như vậy là thuận tình đạt lí. Hội thảo ở Canberra xong, con phải đến Sydney làm việc với Viện di truyền của giáo sư Big một tuần.
aa

Bà giáo Ngát hết ra sân rồi lại vào nhà ngả lưng trên chiếc ghế nửa nằm nửa ngồi. Bà đang nóng lòng đợi con trai. Trước khi nó đi công tác, bà đã bàn với vợ chồng nó. Nó bảo: “Mẹ nghĩ như vậy là thuận tình đạt lí. Hội thảo ở Canberra xong, con phải đến Sydney làm việc với Viện di truyền của giáo sư Big một tuần. Con đã thảo đơn, đứng tên chính chủ là mẹ, vợ chồng con và em Hương kí chứng minh là các thành viên trong gia đình ta đã đồng thuận. Trong đơn con nói rõ là mẹ xin được tặng quyền sử dụng đất thửa 152/289, diện tích 70,6m2, ở ngã tư, để làng mở rộng đường. Thứ hai tuần sau nhà con cùng em Hương sẽ đưa mẹ lên ủy ban, mẹ trình bày nguyện vọng của mình rồi nộp đơn và bàn giao trích lục thửa đất cho ủy ban là xong.”

Mảnh đất đầu làng. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Súc
Minh họa Lê Anh Vân

Nó nói vậy, nhưng là con trai, nó phải là chủ cái nhà này, khi nộp đơn và bàn giao bìa đỏ nó phải có mặt. Nó đi đã được mười ngày, cùng lắm ngày mai ngày kia là về. Hiến tặng cũng phải có lời lẽ trước sau đàng hoàng chứ. Thật là… Nó chỉ tỉ mỉ trong nghiên cứu khoa học, còn mọi việc ngoài đời cứ ào ào qua quýt. Đúng là giỏ nhà ai quai nhà nấy, y hệt ông Tấn ngày xưa. Ví như năm ông ấy vào bộ đội, chuyện đi khám tuyển thôi mà đã phiền đến xã, đến trường rồi…

Nhớ đận đó, sắp hết lớp bảy thì có đợt tuyển quân, là con liệt sĩ nên xã chưa điều động Tấn đi khám tuyển, thế mà Tấn lại đi theo trường. Khi có danh sách những người trúng tuyển đưa về xã, xã hỏi trường về trường hợp của anh. Thầy giáo đưa người đi khám tuyển nói: “Từ hôm có công văn các học sinh cuối cấp đến tuổi được đi khám tuyển bộ đội, nhiều em xin đi nhưng trường thống nhất theo chỉ tiêu trường được giao là hai tư người. Trường chọn trong ba lớp bảy, mỗi lớp tám em là đủ. Còn em Trần Đức Tấn, tôi ngỡ em ấy đã được xã đồng ý cho đi khám nhưng vui với các bạn cùng trường nên em ấy sang bên này cùng đi. Ai ngờ giờ lại vậy!” Ông chủ tịch ủy ban hành chính xã cử ông xã đội vào gia đình truyền đạt lại ý kiến của ủy ban là Tấn chưa nhập ngũ đợt này. Nhưng Tấn chẳng nghe, cứ nài nỉ xin nhập ngũ bằng được. Cuối cùng mẹ anh phải nói với ông xã đội: “Thôi thì chú về báo cáo với xã là tôi xin xã chiếu cố cho cháu nó nhập ngũ đợt ni. Từ lâu, cháu nó đã nói với tôi lớn lên sẽ đi bộ đội diệt giặc để trả thù cho bố!”

Năm đó, cả trường và các thôn có ba sáu người trúng tuyển. Hôm tân binh lên đường, Ngát cùng các bạn tiễn chân đến tận nơi giao quân. Một tháng sau cô nhận được thư của Tấn: “Nhận quân trang hôm trước, hôm sau đơn vị Tấn hành quân bộ từ Bút Sơn đến Tĩnh Gia thì nghỉ lại một ngày. Về sau, cứ hai ngày đi, một ngày nghỉ. Nửa tháng thì đến doanh trại ở gần sân bay Đồng Hới. Anh em xã ta cùng ở Sư đoàn 325. Tấn với mười chín người về Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 18; mười sáu người về Trung đoàn 95 lại phải hành quân mười cây số nữa đến Hoàn Lão…”

Ba tháng sau, Ngát thấy Tấn và anh Phan người cùng thôn về. Tấn hồ hởi nói được đi học sĩ quan ở Sơn Tây. Anh Tường, anh Hoan đi học điện đài ở Lý Hòa. Anh em còn lại hành quân vào chiến trường B để chiến đấu. Khi đó Ngát cười, nói ra vẻ phê bình: “Không sợ lộ bí mật quân sự hay sao mà khai ra hết thế?” Tấn bẽn lẽn cười: “Nói với người nhà chứ có nói với hàng xứ đâu mà lộ bí mật!” Ngát nghe đốp lại ngay: “Ai là người nhà với Tấn?” “Thì cứ cho là người nhà đi. Bắc Nam còn là một nhà nữa là Tấn với Ngát!”

Tấn được nghỉ một tuần trước khi ra Sơn Tây nhập học. Mẹ Tấn bàn với chú Phó cùng làm việc ở xã với bố Ngát đi hỏi vợ cho Tấn. “Hồi thằng Tấn ở nhà, con Ngát thường sang đây học nhóm. Xem ra thì hai đứa cũng có tình ý với nhau. Nhìn hai đứa nói năng với nhau tôi đoán chắc là rứa!” Chú Phó nghe thế hỏi thẳng Tấn: “Choa định hỏi con Ngát cho mi. Mi có đồng ý không?” Ban đầu Tấn còn ra vẻ ỡm ờ, sau mới bảo thế nào cũng được. Rõ là tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Nghĩ đến chuyện đám hỏi mà buồn cười. Chú Phó đánh tiếng trước nên hôm mẹ Tấn cùng hai cô và chú thím Phó mang cơi trầu sang nói chuyện, đằng gái đon đả nhận ngay, bảo rằng thời chiến tất cả phải nhanh gọn lẹ nên coi như đã xong cả lễ dạm ngõ, bỏ trầu, ăn hỏi. Chưa kể bên đằng gái mừng ra mặt, mẹ cô dâu cứ lâu lâu lại ghé vào tai thím Phó bảo có rể gần nhà là hay quá rồi. Họ hàng gốc gác hiểu nhau hết, khỏi lo cho con gái mình phải lấy chồng xa, không mươi năm nữa mình vẫn chưa hiểu hết lòng dạ chàng rể. Quả là có con mà gả chồng gần, có bát canh cần nó cũng mang cho. Bố cô dâu nghe chuyện xung quanh gật gù, tay cầm điếu cày, tay vê thuốc nạp vào nõ điếu mãi chẳng hút, thằng em trai Ngát lên xuống châm đóm đến ba bốn lần ông mới hút xong, rồi ngửa cổ lên trời nhả khói, cúi xuống chiêu tợp nước, tủm tỉm cười nói với vợ: “Không biết hắn mang sang cho mẹ mi hay mẹ mi mang sang cho hắn đây. Dưng mà được cái là gần nhà, nhỡ không may mẹ mi có nhức đầu sổ mũi, ới một tiếng là hắn sang liền!”

Vui là vui thế nhưng hôm hai nhà nói chuyện với nhau, bố Ngát vẫn giao hẹn: “Hai nhà biết rứa thôi nhá! Chờ cháu Ngát ra trường đã!” Thế là một tuần nghỉ ở nhà, anh Phan đã giấm ngay được con Mận béo; còn Tấn với Ngát tiến thêm một bước dài.

Sau đấy làng xã xôn xao chuyện mấy anh đi cùng đợt với Tấn biên thư báo với gia đình là đi B. Đi B tức vô Nam chiến đấu. Đã dặn trong thư không được nói với ai, thế mà rồi chuyện lại lộ nhanh không tưởng. Số là ở quê có cái gì giấu được quá thời gian vần nồi cơm đâu. Ví như bà mẹ đọc thư con sẽ rỉ tai với bà dì; bà dì lại nói khẽ với con cô, con cô lại thỏ thẻ với mấy đứa bạn cùng làng, bạn cùng làng thì hỡi ôi lan sang cả mấy làng bên lúc nào chẳng biết… Thành ra bí mật quân sự đấy… mà loang nhanh ai cũng biết. Vì vậy, mẹ Tấn nóng ruột bàn với chú Phó: “Hè năm ni ta xin anh chị bên ấy cưới cho hai đứa. Bây giờ là thời chiến rồi đi ở chẳng rõ thế nào tôi lo lắm!” Chú Phó thấy cũng là phải bàn lại với đàng gái, mọi chuyện êm xuôi. Thế là nghỉ hè năm ấy Ngát và Tấn thành vợ thành chồng. Năm sau, thi tốt nghiệp xong thì Ngát sinh con, đặt tên là Hoàng. Hoàng mới hơn một tuổi lại đẻ tiếp đứa nữa, con gái, đặt tên là Hương…

Còn Tấn học ở Sơn Tây xong thì tạm biệt bố mẹ vợ con làng quê đi Nam một mạch, bặt vô âm tín. Vợ vừa bén hơi chồng, con vừa bén hơi bố đã phải chia xa. Hòa bình thống nhất được gần năm thì có giấy báo tử về xã. Như quả núi đổ ập xuống nhà, mẹ Tấn ngất lên ngất xuống. Hai con còn nhỏ chưa hiểu chuyện, thấy bà thấy mẹ khóc chúng cũng khóc theo. Cũng nhờ chính quyền, nhờ hợp tác xã, nhờ anh em họ hàng nội ngoại sang chuyện trò, đỡ đần công lên việc xuống cho, dần dần mấy bà cháu mới nguôi ngoai. Nhưng khổ cái là Tấn không có mộ chí để gia đình vào thắp hương. Chẳng được như bố Tấn, ông Tân hi sinh ở Điện Biên Phủ, mộ phần trong Nghĩa trang A1, đã một vài lần chú Phó đưa cả nhà lên thắp hương, đường xá xa xôi khó nhọc đấy, nhưng cũng đỡ mủi lòng người còn sống.

Sau, anh Phan về kể thì người ta khắc tên Tấn trên bia chung: những người đã hi sinh cho giải phóng thị xã Phước Long. Năm đó, tốt nghiệp sĩ quan lục quân, Tấn có lệnh chuyển sang trường bổ túc đặc công. Trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long, Tấn gặp lại anh Phan mới biết cả hai đều không nhận được thư nhà. Đến rạng sáng ngày ba mốt tháng mười hai, năm một chín bảy tư, sau hơn một tiếng đồng hồ pháo lớn của ta bắn cấp tập vào các vị trí xung yếu của địch trong tiểu khu Phước Long. Lại có thêm xe tăng hỗ trợ tiểu đoàn bộ binh 24, do Phan chỉ huy, đánh vào sân bay Phước Bình. Ba giờ chiều quân ta đã làm chủ hoàn toàn chiến trường. Mấy tiểu đoàn lính Việt Nam Cộng hòa bảo vệ sân bay bị tiêu diệt quá nửa, số còn lại xin hàng. Tiểu đoàn đặc công của Tấn đánh vào Trung tâm Viễn thông Bà Rá. Địch bố trí lực lượng bảo vệ tại đây khá bài bản, cả dưới đất lẫn trên trời. Riêng trong ngày ba mốt, không lực Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện hơn năm mươi phi vụ oanh tạc quanh chân núi Bà Rá hòng ngăn chặn sự tấn công của quân ta. Phải đến mãi nửa đêm ta mới chiếm được núi và tổ chức ngay một đài quan sát để chỉ điểm cho pháo binh sáng sau bắn vào các cứ điểm trong thị xã. Trong trận đánh này Tấn hi sinh. Thi thể của anh cùng đồng đội được an táng ngay tại chân núi Bà Rá. Các ngày sau, bom tiếp tục được rải xuống đây, đồi núi nháo nhào, thi thể người nằm lại hòa vào đất trời…

Người đời vẫn nói chết là hết, nhưng chưa chắc đã đúng. Cứ như hôm bà Ngát cúng đốt quần áo rằm tháng bảy vừa rồi suy ra thì biết. Bà khấn xin bố mẹ chồng, chồng việc mấy mẹ con muốn trả miếng đất ở ngã tư, nơi đã làm quán mấy chục năm nay cho xã mở rộng đường, bà xin âm dương một lần là được ngay. Đến tối, mới đặt lưng xuống giường đã thấy bà nội, chồng, cùng một ông già mặc áo trấn thủ về. Thủ thỉ bảo, mình à, thày ta đây, còn dặn thêm: Nói trả đất cho xã là chưa chính xác, phải nói là tặng quyền sử dụng thửa đất làm quán ở ngã tư đầu làng để xã mở rộng đường làng mới đúng. Mẹ chồng nghe, móm mém cười, bảo bố thằng Hoàng nói đúng…

Con dâu đi làm về leng keng mở cổng, bà giáo Ngát giật mình bừng tỉnh khỏi dòng hồi ức. Bà nói với con điện nhắc chồng về tạt qua trường bách khoa đón thằng Hải cháu đích tôn luôn. Nhưng con dâu chối, bảo sẽ dặn nó đặt xe giường nằm, đưa đón tận nơi về cho tiện, khỏi đón rước, thời bình chứ có phải thời chiến đâu…

*

Lại kể chuyện miếng đất gia đình bà Ngát đang chuẩn bị hiến tặng, nó liên quan mật thiết đến anh Phan, người đồng đội của Tấn. Khi đó, về quê được hơn năm, vào kì bầu cử hội đồng nhân dân các cấp anh trúng cử, làm phó chủ tịch thường trực ủy ban hành chính. Giai đoạn này hoạt động của các loại hình hợp tác xã không còn phù hợp nên năng suất cây trồng, vật nuôi, các loại dịch vụ dậm chân tại chỗ dẫn đến kinh tế không phát triển, đời sống nhân dân khó khăn. Tuy không đến nỗi mất bữa nhưng nhiều gia đình một bữa cơm độn sắn, độn hạt bo bo, một bữa cháo là thực tế hiển hiện. Cấp ủy, chính quyền trăn trở tìm biện pháp giúp người dân vượt lên thoát nghèo đói cứ luẩn quẩn như gà mắc tóc.

Cuối năm, sau cuộc họp thường vụ đảng ủy duyệt báo cáo tổng kết năm, Phan nán lại gặp bí thư Vinh và chủ tịch Quyền. Anh nhắc lại đề xuất của mình trước đây: “Hôm xây hàng rào trường trung học phổ thông, để cho khuôn viên nhà trường vuông vức, thầy hiệu trưởng xin ý kiến ủy ban cho dịch góc phía Tây, giáp với bờ ao của hợp tác xã Quyết Tiến vào một quãng. Sự dịch chuyển này tòi ra một lẻo đất xéo lá cờ có mặt tiền nhìn ra tỉnh lộ khoảng hai mét rưỡi, hai mét sáu. Đề nghị các anh cho cụ bà Phạm Thị Tỵ, là vợ liệt sĩ Trần Đức Tân và là mẹ liệt sĩ Trấn Đức Tấn, làm cái quán bán nước chè và bán quà vặt. Vì tôi nghĩ mãi không thể tìm được cách nào hơn giúp gia đình cụ thoát nghèo nên đành đề xuất cách này. Nhà cụ Tỵ nếu chỉ trông vào lao động chính là chị Ngát, vợ liệt sĩ Tấn, giáo viên vỡ lòng, hưởng công thóc của hợp tác xã thì không thể đủ ngày đôi bữa cơm cháo cho mẹ chồng và cùng hai con đang tuổi lớn. Tháng trước, cháu Hoàng, con đầu chị Ngát trốn nhà, bỏ học theo người làng lên vùng kinh tế mới để mót sắn. Tôi phải lên dỗ, đưa cháu về tiếp tục đi học, nghĩ mà thương…”

Sau khi nghe Phan trình bày, bí thư Vinh đồng ý chủ trương, nhưng vẫn lăn tăn trong cách giải quyết cụ thể: “Nếu ta để cho cháu bỏ học là ta có tội với những người đã khuất. Hoàn cảnh gia đình cụ Tỵ có chồng hi sinh trong chống Pháp, con hi sinh trong chống Mĩ, cấp từng ấy chứ cấp gấp năm, gấp mười nữa cũng xứng đáng. Nhưng dù ít mà ta giao đất của tập thể cho cá nhân là vướng vào tư hữu ruộng đất, mầm mống sinh ra tư bản. Theo tôi, chúng ta nên tìm cách khác!” Nghe bí thư Vinh nói vậy, chủ tịch Quyền đề nghị suy nghĩ thêm.

Rồi không hiểu chủ tịch Quyền tham khảo ý kiến những cấp nào mà một tuần sau, Phan được gọi sang. Chưa ngồi ấm chỗ, chủ tịch vào việc ngay: “Vấn đề đồng chí đề xuất tuần trước, tôi và đồng chí bí thư đã thống nhất giao đồng chí cùng đồng chí Tới bên địa chính làm việc với gia đình cụ Tỵ. Dù chỉ một lẻo đất cũng phải xuống xem xét cụ thể, có giới hạn vị trí, chỉ cho làm tạm quán bằng tranh tre, chỉ bán nước chè và bánh kẹo.”

Thế là ngay chiều hôm đó, Phan, anh Tới cùng chủ nhiệm hợp tác xã Quyết Tiến mời cô giáo Ngát thay mặt cho bà cụ Tỵ ra thực địa nhận đất làm quán. Hôm sau, Phan nói cô Lan, bí thư chi đoàn thanh niên huy động một số đoàn viên chặt tre, đốn tàu kè, đắp nền, chỉ ba ngày sau đã dựng xong quán. Ông chủ nhiệm Quyết Tiến bảo mấy thanh niên đưa xe bò ra lò vôi của hợp tác xã lấy tro lò về trộn với đất cát pha, đắp cho nền cao lên, đầm cho chắc và nhẵn. Thầy hiệu trưởng biết làm quán cho mẹ liệt sĩ, liền nói với tổ công đoàn nhà trường sửa lại ba cái ghế băng, cùng cái bàn phòng thí nghiệm vừa thay mới loại ra, đưa ra quán để cụ bày hàng. Các cô giáo bàn nhau kẻ ít người nhiều, góp lại làm vốn cho bà cụ khai trương. Thế là chỉ mười ngày, cụ Tỵ đã có quán bán nước chè và bánh kẹo.

Từ khi có quán nước, có người qua lại, cụ Tỵ vui vẻ khỏe ra, lại có thêm thu nhập nên gia đình cũng đỡ bấn. Năm nhà nước có chủ trương giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho dân, anh Tới địa chính đề nghị với xã cho vận dụng làm thủ tục báo cáo lên huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng lô đất đã làm quán cho gia đình cụ Tỵ. Tuy là mảnh đất xéo, phần đuôi chỉ bằng hai phần ba mặt tiền nhưng tổng cộng được 70,6m2. Mấy người bạn đồng ngũ với Tấn thấy mẹ anh được huyện cấp sổ đỏ cho thửa đất liền bảo nhau người góp gạch, người góp vôi cát, xúm nhau xây cho cụ căn nhà ba gian. Gian đầu tiên tuy xéo nhưng được cái nhìn ra tỉnh lộ và đường làng là gian bán hàng; gian kế kê cái giường, để cụ mỏi lưng nằm nghỉ; gian còn lại nhỏ nhất chứa hàng hóa mỗi tối khi đóng cửa. Chưa hết, tính ngang tính dọc, các anh cũng làm được thêm cái bếp nhỏ, sau cùng xây cái giếng con con, tiện cho cô giáo Ngát hàng ngày tranh thủ lấy nước nấu và rửa cốc chén.

Năm nghỉ hưu, Ngát sắm thêm nhiều mặt hàng, quán càng đông khách hơn. Còn cụ Tỵ vẫn thích ra ngồi bán quán để gặp bạn bè, xóm láng chuyện trò. Khi này Hoàng đã đậu vào trường đại học sư phạm, Hương đậu trường y. Đông vụ chí kì, phụ huynh các cháu học sinh cũ đến giúp một tay cùng cô giáo Ngát cấy hái ba sào ruộng khoán; sau khi đã làm đủ nghĩa vụ với hợp tác xã vẫn dôi lúa cùng với vài thước ruộng năm phần trăm thừa gạo ăn hàng năm.

Thời gian sau, trên mở rộng tỉnh lộ đến cảng Hải Đồ, trước quán thành ngã tư lớn, đêm cũng như ngày người xe qua lại nhộn nhịp. Thấy cụ Tỵ đã già, cô Ngát nghỉ hưu, con trai du học nước ngoài nên có người mang hơn tỉ bạc đến nhỏ to mẹ con nhượng lại quán cho họ. Cụ Tỵ thẳng thừng: “Một tỉ chứ mười tỉ cũng không bán. Đó là đất của xã cấp cho nhà tôi làm cần câu giúp con cháu học hành tấn tới. Khi xã cần hay nhà tôi không có người ngồi bán quán nữa sẽ trả lại!”

Nhưng cụ Tỵ cũng chỉ ngồi bán được ít năm nữa rồi nhẹ nhàng đi gặp chồng con ở thế giới bên kia. Số là chiều hôm đó hai mẹ con từ quán về, cụ nói với con dâu mình thấy hơi váng đầu và người gây gây sốt. Cô giáo Ngát bảo mẹ nằm nghỉ, rồi ra vườn hái lá nấu nồi nước thơm cho bà xông. Xông xong, lau mồ hôi và giúp mẹ chồng thay quần áo. Ngát bảo cụ cứ nằm nghỉ để mình bắc nồi cháo. Nhưng cụ bảo ăn cơm thôi, ăn cháo chỉ tổ “mót” đêm chứ báu gì. Rồi cụ khen: “Mẹ mi có bài xông giải cảm nhạy thật!” Bữa đó cụ ăn được miệng bát cơm chan canh cua đồng nấu với lá chua me. Ăn xong, cô cho cụ uống một viên thuốc cảm và mười viên B1. Tối nằm cùng giường, thỉnh thoảng Ngát sờ sang người nghe ngóng, thấy cụ ngủ ngon. Sáng cụ dậy sớm như mọi ngày, quét sân, thả gà, tung thóc cho gà ăn. Ngát mua bánh cuốn nóng về, cụ ăn vài cái, uống thêm thuốc bổ, rồi bảo đưa mình ra quán cho vui. Ngát đáp: “Hôm nay mẹ mệt, ta nghỉ bán quán một ngày!” “Khách đang quen nghỉ không nên, với lại giờ mẹ thấy người khỏe hẳn rồi, nằm một chỗ không khéo lại kéo ốm thêm!” Chiều mẹ chồng, Ngát đành phải lai cụ ra quán.

Sang đến chiều, Hương tạt qua quán thăm bà và mẹ. Cả ba mẹ con bà cháu đóng hàng sớm cùng về. Về nhà Ngát bảo con nấu nước lá sả, bồ kết và pha nước ấm giúp bà gội đầu, lau sơ người, thay quần áo. Ăn cơm xong, Hương xin đêm nay ở lại ngủ với bà và mẹ. Cụ Tỵ kể chuyện ngày xưa cho con dâu cùng cháu nghe mãi đến tận khuya… Sáng sau, Hương đưa tay sang sờ vú và cù nách bà như mọi lần để đánh thức bà nhưng không thấy bà phản ứng gì. Sợ hãi, Hương hét toáng lên. Ngát đang nấu ăn dưới bếp vội vàng chạy bổ lên ôm lấy mẹ chồng. Người cụ vẫn ấm, nhưng nắm cổ tay không thấy mạch nhảy, sờ vào mũi không thấy thở. Ngát khóc, nói không thành tiếng: “Bà đi rồi con ơi… Bà bỏ… mẹ con ta… Ối… làng nước… mẹ tôi… không thở nữa rồi… Mẹ ơi là… mẹ ơi… mẹ… ơi…” Nước mắt Ngát giàn giụa, Hương chạy đi gọi làng xóm, chẳng mấy chốc bà con xung quanh đã túa sang chật nhà.

Cụ Tỵ được chôn cất ở nghĩa trang làng. Năm đó Hoàng đang học bên Pháp không về được. Chú Phó nói: “Anh Hoàng vắng nhà, nhưng là cháu đích tôn, bố anh Hoàng không còn nên anh phải để tang bà thay cho bố theo lệ: mũ rơm, áo xô xổ gấu, dây chuối thắt lưng để lên bàn vong, gậy vông dựng trước bàn vong...”

*

Đúng hai giờ chiều, Hoàng lái xe đưa mẹ, em gái, con trai mình lên ủy ban xã.

Bà Ngát vào văn phòng đã thấy bí thư, chủ tịch, cùng các ban ngành có mặt đông đủ. Cán bộ xã giờ toàn các anh trẻ bà chẳng biết anh nào. Chủ tịch xã nhìn quen lắm, hình như con bà Váng trong làng thì phải, đứng lên nói:

“Thưa bà giáo, sáng nay giáo sư Tú có điện cho con báo chiều gia đình sẽ lên gặp xã. Con nói để chúng con vào nhà, nhưng anh Tú nói đây là ý của bà nên con đồng ý. Đại diện các phòng ban đã có mặt đầy đủ, vậy kính mời bà có lời phát biểu!”

“Thưa ông bí thư, chủ tịch, cùng các anh chị. Cách đây mấy chục năm xã đã cấp cho mẹ chồng tôi: cụ Nguyễn Thị Tỵ thửa đất ở ngã tư đầu làng để làm quán bán nước. Mấy chục năm qua, nhờ mảnh đất này mà mẹ chồng tôi đã nuôi dưỡng được các con tôi ăn học, trưởng thành và giúp tôi hoàn thành trách nhiệm người giáo viên mầm non. Hiện nay, được biết xã nhà cần thửa đất để mở rộng đường liên thôn cho phù hợp với chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, tôi và các con cháu xin được tặng quyền sử dụng thửa đất này cho xã!”

Bà giáo Ngát hai tay run run đưa lá đơn và tờ bìa đỏ cho chủ tịch ủy ban nhân dân xã trong tiếng vỗ tay của mọi người.

Ngoài sân ủy ban, nắng như nhảy múa mỉm cười…

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn