| Jorge Luis Borges (1899-1986) là nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn người Argentine. Ông được xem là kinh điển của văn chương thế giới thế kỷ 20. Borges có lối viết siêu thực, tưởng tượng và mơ mộng. Mặc dù tên ông nhiều lần được đề cập để xét đến một giải Nobel văn chương, tuy nhiên Borges chẳng bao giờ trở thành nhà văn đoạt giải. Ông qua đời năm 1986 tại Geneva, Thụy Sĩ. Các tác phẩm chính: “El Jardin de Senderos que se Bifurcan" (tập truyện ngắn 1941); "Ficciones" (1944); "El Informe de Brodie" (1970); "El Libro de Arena" (1975)... |
Bây giờ là năm 1972, nếu kể lại, có thể độc giả sẽ cho là tôi bịa, còn không, e rằng năm tháng qua đi sẽ làm tôi không còn cơ hội tiếp cận với nó nữa.
Hôm đó vào khoảng mười giờ sáng. Tôi ngồi dựa lưng vào cái ghế đá cạnh dòng sông Trarlz. Cách đó khoảng trăm bước về bên phải là một ngọn tháp cao - đến giờ tôi cũng không biết người ta gọi ngọn tháp đó là gì. Dưới sông, dòng nước màu xám tro mang theo trong nó biết bao các tảng băng nhiều góc cạnh đã gợi lên trong tôi một ý nghĩ về thời gian. Hình tượng ngàn năm được Heraklit sáng tạo nên. Đêm qua tôi ngủ rất ngon, bởi bài giảng buổi chiều của tôi dường như đã thu phục được đám sinh viên.
Quanh tôi vắng ngắt.
Bỗng nhiên tôi có cảm giác một người nào đó đang ngồi xuống cạnh tôi. Tôi muốn yên tĩnh một mình, nhưng không tiện bỏ đi, sợ làm vậy có vẻ bất nhã. Người đó bắt đầu huýt sáo một điệu nhạc. Tôi đã trải qua chấn động đầu tiên từ những chấn động của buổi sáng hôm ấy: người đó huýt sáo hoặc cố gắng huýt sáo (tai tôi nghe không rõ) một nhạc phẩm Argentina, bài “Túp lều xưa" của Elias Regules. Giai điệu này đưa tôi về lại cái nơi mà hầu như nó không còn tồn tại và gợi lên trong ký ức tôi hình ảnh của Alvaro Melian Lafunur, người đã mất lâu rồi. Mặc dù cái giọng huýt sáo bên cạnh tôi không giống lắm với giọng của Alvaro, nhưng người thực hiện nó cố mô phỏng theo giọng của Alvaro. Tôi chợt rùng mình.
Quay sang người ngồi bên cạnh, tôi nói:
- Xin lỗi, anh là người Uruguay hay người Argentine?
- Tôi là người Argentine, nhưng từ năm mười bốn tuổi tôi đã sang sống ở Geneva - Anh ta trả lời.
Im lặng một lúc lâu rồi tôi lại hỏi:
- Ở đường Malanio, nhà số 17, đối diện với đền thờ kiểu Nga La Tư?
Anh ta gật đầu đồng ý.
- Vậy thì, - tôi tuyên bố - họ tên của anh là Jorge Luis Borger (*). Chúng ta đang có mặt tại thành phố Kembrid, năm 1969.
- Không - anh ta trả lời bằng chính cái giọng của tôi, nhưng nghe có vẻ xa xôi.
Sau khi im lặng chừng hai, ba phút, anh ta nói thêm một cách dứt khoát:
- Không, đây là Geneva, tôi đang ngồi trên cái ghế đá cách sông Rona chỉ vài mét. Điều lạ lùng là chúng ta quá giống nhau, mặc dù trông ông già hơn tôi nhiều với mái tóc bạc...
Tôi trả lời:
- Tôi có thể chứng minh với anh rằng tôi không nói xạo. Tôi sẽ điểm qua mấy thứ đồ vật mà chỉ những người trong nhà mình mới biết: đó là chiếc bình bằng bạc với cái đế hình trôn ốc mà ông nội mình đem về từ Peru; một cái yên ngựa cũng bằng bạc. Trên kệ trong phòng của anh, sách được xếp hai hàng, ở đó có ba tập “Ngàn lẻ một đêm” của Leina với các bức tranh khắc và lời chú giải kiểu chữ nhỏ sau mỗi chương; rồi cuốn từ điển La tinh của Kisep; cuốn “Nước Đức” của Taxit qua bản dịch của Gordon; cuốn “Don Kihote” của nhà xuất bản Garna; cuốn “Đấu trường đẫm máu” của Rivera Indarte với lời đề tặng của tác giả; rồi cuốn tiểu sử của Amelia và một cuốn về nghi thức cưới hỏi của các dân tộc vùng Bancan đã sờn rách nằm khuất phía sau. Tôi không quên được những buổi hoàng hôn trên ban công căn nhà ở Plac Diubur.
- Diufur - anh ta cải chính.
- Ừ, cứ cho là Diufur. Nhưng anh có chắc không?
- Không - anh ta trả lời - bởi tất cả những điều đó không đủ làm bằng chứng. Và nếu như tôi gặp ông trong mơ thì dĩ nhiên ông cũng phải biết tôi.
Lời nhận xét trên xem ra có lý. Tôi trả lời:
- Nếu buổi sáng này và cuộc gặp gỡ này chỉ là giấc mơ thì mỗi người trong chúng ta có quyền nghĩ rằng, chính người kia đang ngủ và đang mơ. Có thể chúng ta sẽ tỉnh giấc, mà cũng có thể không. Nhưng tôi biết rõ một điều: chúng ta cần tiếp nhận giấc mơ này một cách hiện thực như tiếp nhận vũ trụ nơi chúng ta đang sống, đang nhìn, đang thở...
- Nhưng nếu bỗng nhiên giấc mơ kéo dài? - Anh ta thốt lên vẻ lo lắng.
Để trấn an anh ta và cả mình nữa, tôi trả lời khá tự tin:
- Thì có sao đâu? Giấc mơ của tôi kéo dài đã bảy mươi năm. Rốt cuộc, nếu ta chịu nghiệm ra, chẳng ai không gặp lại chính mình. Và điều đó đang xảy ra với chúng ta hiện tại, trừ phi ở đây chúng ta có hai người. Có thể anh muốn biết điều gì đó từ quá khứ của tôi mà đối với anh nó là tương lai?
Anh ta im lặng. Và tôi bắt đầu nói hết những gì vừa nghĩ ra:
- Má mình vẫn khỏe mạnh và luôn bận bịu trong ngôi nhà ở gần đường Trarkas, Buenoc Airec. Ba đã mất ba mươi năm trước vì bệnh tim. Nhưng trước đó ông đã bị liệt nửa người bên trái, nên bàn tay trái teo lại, so với bàn tay phải nó giống như bàn tay đứa bé con với bàn tay người khổng lồ. Ba chết thanh thản, không rên la. Bà nội mình cũng mất trong ngôi nhà ấy. Trước khi mất vài ngày, bà gọi tụi mình lại rồi nói: “Bà là mụ đàn bà quá già và chết quá chậm. Nhưng các con đừng bận tâm, đó là chuyện thường tình”. Nora, đứa em gái của anh đã lấy chồng, có hai con trai. Nhân tiện xin hỏi, họ sống thế nào?
- Tuyệt lắm. Cha, như ông đã biết, vẫn luôn luôn nhạo báng tôn giáo. Chiều hôm qua ông nói rằng, Chúa Giêsu không thích lâm vào tình thế khó xử, vì vậy ông ta, tức Giêsu, chỉ toàn nói bóng gió...
Lưỡng lự một chút anh ta lại hỏi tôi:
- Còn ông sống như thế nào?
Tôi không trả lời mà nói tiếp ý của mình:
- Tôi không biết số lượng những cuốn sách mà anh sẽ viết, chỉ biết rằng chúng nhiều lắm. Anh sẽ làm thơ, thơ sẽ mang đến cho anh niềm vui. Anh cũng sẽ viết cả truyện viễn tưởng. Sau đó anh đi dạy học như cha mình và nhiều người trong họ hàng...
![]() |
| Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest |
Tôi lấy làm hài lòng vì anh ta không hỏi những cuốn sách của tôi có thành công hay không. Rồi lại tiếp tục với một giọng khác:
- Nếu để ý đến sự kiện lịch sử thì có thêm một cuộc chiến tranh với sự tham gia của gần như tất cả những kẻ đối kháng. Pháp nhanh chóng đầu hàng, Anh và Mỹ đánh nhau với nhà độc tài người Đức Hitler; sau đó là sự lặp lại của trận Waterloo. Năm 1955 tỉnh Kordoba đã cứu chúng ta như trước kia Entre Rios đã cứu chúng ta vậy. Giờ đây tình hình lại càng phức tạp. Nước Nga tăng cường sự ảnh hưởng của mình trên khắp hành tinh, Mỹ không muốn trở thành đế quốc, họ sợ bị coi là kẻ thù của dân chủ. Đất nước mình ngày càng lún sâu vào chủ nghĩa cục bộ địa phương. Chủ nghĩa cục bộ này cộng thêm sự tự ti đích thị là tấm chắn che ngang tầm mắt. Tôi không lấy gì làm ngạc nhiên nếu một hôm việc giảng dạy trong nhà trường được đổi từ tiếng La Tinh sang tiếng Guaranh...
Anh ta hầu như không hề nghe tôi nói. Nỗi sợ hãi trước cái điều không thể giải thích hơn là những điều hiển nhiên rõ ràng đã làm anh ta tê liệt. Tôi chưa bao giờ làm cha, nhưng trong tôi dâng lên niềm thương cảm đối với anh chàng tội nghiệp này, thương như thương đứa con ruột. Tôi để ý thấy anh ta cầm trong tay quyển sách, tôi hỏi sách gì.
- “Những người bị ám ảnh”, hay nói cách khác “Lũ người quỉ ám” của Dostoepxki, - anh ta trả lời không giấu vẻ tự hào.
- Phải khó khăn lắm tôi mới hiểu nổi ông nhà văn này. Còn anh, anh thích ông ta chớ?
- Không ai có thể đi sâu vào những bí mật của tâm hồn dân Xlavơ được như ông nhà văn cổ điển này - Anh ta gằn giọng.
Dưới sông, tiếng sóng vỗ nhịp nhàng dường như đã làm cho anh ta bình tĩnh trở lại. Tôi hỏi những tác phẩm nào của nhà văn cổ điển Nga này mà anh ta đã kịp đọc. Anh nêu tên vài cuốn, trong số đó có cuốn “Sinh đôi”. Tôi hỏi anh ta đang viết gì, anh ta nói đang chuẩn bị cho in tuyển tập thơ mang tên “Những bài thánh ca đỏ”.
- Mà tại sao lại không thử? - Tôi nói – Anh có thể dựa vào những bậc tiền bối rạng ngời tên tuổi! Hãy nhớ lấy những vần thơ sâu sắc của Ruben Dario, Berlen...
Bỏ ngoài tai mọi lời nói của tôi, anh ta giải thích rằng, cuốn sách của anh ta sẽ ca ngợi tình anh em của các dân tộc trên thế giói; rằng thi sĩ ngày nay không thể quay lưng với thời đại của mình.
Tôi ngồi nghĩ ngợi, sau đó hỏi có thật anh ta coi tất cả mọi người là anh em? Chẳng hạn các gã phu đào huyệt, các ông ngồi bàn giấy, các tay đầu đường xó chợ, ngay cả những người mất quyền công dân v.v...? Anh ta nói rằng cuốn sách của anh ta dành tặng cho quần chúng bị áp bức nói chung.
- Quần chúng bị áp bức của anh, - tôi nói - đó không hơn gì một khái niệm trừu tượng. Chỉ có những cá thể riêng lẻ là tồn tại. “Anh là hiện nay chứ không phải là anh của hôm qua”. Chúng ta hai người trên cái ghế đá này còn không rõ đang ở Geneva hay Kembrid. Trường hợp của chúng ta đã đủ chứng minh điều đó.
Cuộc gặp gỡ của chúng tôi, xét trên phương diện nào đó, là cuộc gặp gỡ duy nhất; và nói thật là chúng tôi không chuẩn bị. Chẳng may, những gì chúng tôi đã bàn luận về văn chương, chữ nghĩa, tôi e là tôi không nói được điều gì mới so với những gì tôi đã nói với giới báo chí. “Cái tôi khác” của tôi tin vào sự cần thiết hình thành hoặc mở ra những ẩn dụ mới. Tôi thì chỉ tin vào sự tương ứng chính xác của từ ngữ được hình thành bằng trí tưởng tượng của chúng tôi, bằng hình ảnh của chính mình hoặc bằng những khái niệm mà ai cũng biết. Sự già cỗi của con người, sự sa sút của cuộc sống, sự qua nhanh của thời gian... Tôi giãi bày cho anh ta những ý nghĩ của mình, những ý nghĩ mà tôi đã thể hiện trong một cuốn sách viết vài năm sau đó.
Anh ta dường như chẳng thèm nghe tôi. Bỗng nhiên anh ta nói:
- Nếu ông nói ông là tôi thì ông giải thích thế nào về một cuộc gặp gỡ giữa ông với một ngài đứng tuổi vào năm 1918, cái ngài đã nói với ông rằng, ông ta cũng chính là Borges?
Tôi không nghĩ đến cái điều nguy hiểm này, nên trả lời thiếu tự tin:
- Rõ ràng, trường hợp ấy chỉ làm cho tôi rất ngạc nhiên, và tôi cố gắng quên nó.
Anh ta hỏi một cách rụt rè:
- Mà tôi hỏi thật, trí nhớ của ông còn tốt chứ?
Tôi biết, đối với một anh chàng chưa tròn hai mươi tuổi, thì người đàn ông bảy mươi đã là gần phân nửa cái thây ma. Tôi trả lời anh ta:
- Nói chung, nó không được tốt lắm, nhưng còn đủ sức nhớ cái gì cần nhớ. Tôi đang học thổi kèn Xắcxôphôn kiểu Anh và không cho rằng mình thuộc loại dở nhất trong nhóm.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi kéo dài khá lâu. Bỗng trong tôi nảy ra ý nghĩ:
- Tôi có thể chứng minh với anh rằng anh đang nhìn thấy tôi trong thực tại. Anh thử nghe câu thơ này, câu thơ mà anh chưa bao giờ đọc nhưng tôi có thể nhớ:
- L'hydre - unives tordant son corps écaillé d'astres (**).
Tôi nhận thấy anh ta sửng sốt, gần như sợ hãi. Anh ta khẽ lặp lại, như thể để thưởng thức.
- Quả thực - anh ta lẩm bẩm – tôi chưa bao giờ làm một điều gì tương tự như thế.
Victor Hugo đã hợp nhất chúng tôi.
Trước tình huống trên, anh ta bèn đọc thuộc lòng một trích đoạn thơ, và tôi nhớ đó là trích đoạn từ một bài thơ của Yolt Witman, đoạn nhà thơ hồi tưởng lại một đêm trên bãi biển chỉ có hai người...
- Nếu Witman ca ngợi cái đêm ấy, - tôi nói khi đến lượt mình - có nghĩa ông ta muốn cái đêm ấy, nhưng than ôi, cái đêm ấy thì lại không có. Thơ ca gây ấn tượng khi chúng ta nhận thức trong nó niềm khát vọng thiết tha chứ không phải niềm vui từ cảm xúc đã trải qua.
Anh ta im lặng nhìn tôi, sau đó kêu lên:
- Ông không hiểu ông ấy. Witman không có khả năng nói dối.
Nửa thế kỷ không phải là quà tặng. Trong thời gian chúng tôi trò chuyện - cuộc trò chuyện của hai người có kiến thức khác nhau và quan điểm khác nhau - tôi nhận thức được rằng, chúng tôi không hiểu nhau, và điều đó luôn luôn làm phức tạp thêm cuộc đối thoại. Mỗi người trong chúng tôi chỉ nhại lại văn chương của người kia. Tình huống hoàn toàn giả tạo hầu chiếm nhiều thời gian. Cuộc tranh luận không có ý nghĩa, và đó là điều không thể tránh khỏi.
Tôi chợt nhớ một câu chuyện viễn tưởng của Colrid, một người thấy mình đang dạo chơi trên thiên đường, ở đó người ta tặng cho anh ta bó hoa. Khi tỉnh giấc, anh nhìn thấy bó hoa ấy ngay bên cạnh mình. Và tôi muốn làm một điều gì đó tương tự như câu chuyện trên.
- Nghe này, - tôi nói với anh ta – anh có tiền trong túi không?
- Có, - anh ta đáp - hai mươi Franc. Hôm nay tôi có mời Ximông Giklinski đi ăn tối ở quán “Cá sấu".
- Nào, đưa cho tôi một đồng xu lẻ của anh đi.
Anh ta móc ra ba Franc tiền cắc và phân vân đưa cho tôi một đồng. Tôi đưa cho anh ta một trong những tờ đô la Mỹ có giá trị khác nhau nhưng hình thức thì hoàn toàn giống nhau. Anh ta chăm chú quan sát tờ giấy bạc với sự tò mò thích thú.
- Ủa, không lẽ? – Anh ta la lên - ở đây người ta đề năm phát hành của tờ giấy bạc là năm 1964!
(Vài tháng sau có ai đó nói với tôi rằng trên tờ đô la không bao giờ có ghi năm tháng phát hành).
- Lạ thường chưa! - Anh ta lại thốt lên - Mà những điều lạ thường nó làm cho tôi sợ. Ai đã chứng kiến cảnh Lagiria hồi sinh đều phải kinh hoàng!
Chúng tôi ngồi im như tượng.
Anh ta xé nát tờ giấy bạc ra thành từng mảnh. Tôi vẫn còn giữ đồng bạc cắc 1 Franc.
Rồi tôi quyết định quăng nó xuống sông. Đồng bạc, khi bay xuống nước, cần phải thể hiện tính chân thực trong câu chuyện này của tôi. Nhưng số phận lại trớ trêu...
Tôi trả lời rằng, hiện tượng siêu nhiên nếu nó lặp lại thì nó không còn làm ta kinh sợ. Rồi tôi đề nghị anh ta gặp nhau vào ngày mai trên chính cái ghế đá này, cái ghế đá nằm ở hai thời kỳ khác nhau và ở hai địa điểm khác nhau.
Anh ta đồng ý và nói đã đến lúc phải đi mặc dù không nhìn vào đồng hồ. Cả hai chúng tôi đều nói dối và ai cũng biết kẻ đang trò chuyện với mình nói dối. Tôi cũng nói thêm với anh ta rằng, vì tôi mà mọi người cũng sẽ tới.
- Tới vì ông? - Anh ta ngạc nhiên.
- Phải. Khi anh ở vào cái tuổi xế chiều của tôi, anh sẽ gần như lú lẫn. Có thể anh còn nhận thức được màu sắc, bóng tối, ánh sáng. Nhưng đừng có lo lắng. Cái bệnh mù một khi nó đến từ từ thì đó chưa phải là thảm họa. Điều đó giống như bóng tối chậm chạp đến trong những buổi hoàng hôn mùa hè.
Chúng tôi không bắt tay nhau. Ngày hôm sau tôi không đến điểm hẹn. Anh ta, tôi nghĩ, chắc cũng không đến.
Tôi đã trăn trở rất nhiều về cuộc hẹn hò này, cuộc hẹn hò mà tôi chưa kể cho ai nghe. Tôi nghĩ, giờ đây cuối cùng tôi đã đạt đến chân lý. Cuộc gặp gỡ là có thật, nhưng anh ta đã trò chuyện với tôi trong mơ và vì vậy anh ta có thể quên tôi. Tôi trò chuyện với anh ta trên thực tế và những hồi ức ấy làm khổ tôi đến bây giờ.
Anh ta gặp tôi trong mơ nên không nhớ rõ tôi bằng tôi nhớ rõ anh ta. Và bây giờ thì tôi cũng biết, trên tờ đô la Mỹ người ta không hề ghi năm tháng phát hành.
NGUYỄN TRỌNG NGHĨA (Dịch từ bản tiếng Nga)
----------------------
(*)Chính là tên tác giả của truyện ngắn này
(**)Nguyên văn trong bản thảo, rất có thể là một câu thơ của Victo Hugo, bởi vì sau đó tác giả viết “Victor Hugo đã hợp nhất chúng tôi".