![]() |
Hội nghị tập huấn Bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ công tác truyền thông Giảm nghèo về thông tin của huyện Gia Viễn - Ninh Bình. Ảnh: Ninhbinh.gov.vn |
Thực hiện Đề án 06 của Chính phủ và các chỉ đạo của Ban Chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh, Ninh Bình đã triển khai đồng bộ các chương trình tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng số cho ba nhóm đối tượng cốt lõi: cán bộ – người dân – doanh nghiệp.
Trong đó, các tổ công nghệ số cộng đồng – với hơn 1.679 tổ, 8.529 thành viên – đã trở thành lực lượng chủ lực, xuyên suốt ở cơ sở. Họ không chỉ “cài app” giúp dân, mà còn thay đổi thói quen hành chính, tiêu dùng và giao tiếp. Các lớp hướng dẫn được tổ chức linh hoạt: tại hội trường, ở nhà văn hóa thôn, tại các điểm công cộng hoặc ngay tại nhà dân.
Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay: Hơn 3.300 tình nguyện viên của Tỉnh đoàn đã trực tiếp đến từng hộ gia đình để hướng dẫn thao tác công nghệ; 633.435 tài khoản định danh điện tử được kích hoạt thành công; 25.000 chữ ký số công cộng được cấp cho người dân và doanh nghiệp; Tỷ lệ người dân trưởng thành sở hữu điện thoại thông minh đạt 91% – một con số vượt trội so với mặt bằng chung cả nước.
Không thể kỳ vọng người dân chuyển đổi nếu chính cán bộ không làm chủ công nghệ. Từ cấp xã đến cấp tỉnh, công tác đào tạo kỹ năng số cho công chức, viên chức được tỉnh xác định là nhiệm vụ trọng tâm.
Hiện toàn tỉnh có: 744 công chức, viên chức chuyên trách hoặc kiêm nhiệm công nghệ thông tin, chuyển đổi số; Tỷ lệ cán bộ cấp xã được trang bị máy tính, thiết bị phụ trợ và có thể vận hành độc lập hệ thống văn bản điều hành, phần mềm chuyên ngành đạt trên 90%.
Các lớp bồi dưỡng không chỉ dừng lại ở thao tác sử dụng, mà còn nâng cao tư duy khai thác dữ liệu, an toàn thông tin, khả năng hướng dẫn lại cho người dân. Nhiều xã như Yên Hòa (Yên Mô), Lạc Vân (Nho Quan) đã xây dựng đội ngũ cán bộ “đa năng” – vừa giải quyết thủ tục, vừa hỗ trợ công nghệ, rút ngắn đáng kể thời gian và nâng cao chất lượng phục vụ.
Chuyển đổi số không dành riêng cho ai. Chính vì thế, các chương trình phổ cập kỹ năng số đã mở rộng ra các đối tượng tưởng chừng “xa lạ” với công nghệ: nông dân, học sinh, người cao tuổi.
Tại nhiều địa phương, tổ công nghệ số cộng đồng đã tổ chức các buổi “chợ công nghệ”, “cà phê số”, “lớp học bình dân số”, nơi bà con được học cách sử dụng ví điện tử, vào cổng dịch vụ công, hoặc đơn giản là kiểm tra hóa đơn điện nước, tra cứu giá nông sản.
Đặc biệt, mô hình “Xã thông minh” tại Yên Hòa (Yên Mô) được xem là điểm sáng. Người dân nơi đây không chỉ sử dụng nền tảng số trong thanh toán, giao dịch mà còn bán hàng qua sàn thương mại điện tử, theo dõi sức khỏe từ xa qua ứng dụng, thậm chí khai thác dữ liệu lịch sử, văn hóa địa phương để phát triển du lịch cộng đồng.
Chuyển đổi số dài hạn đòi hỏi đầu tư vào thế hệ tương lai. Tại Ninh Bình, các trường học đã triển khai học bạ điện tử, sổ liên lạc số, và ứng dụng học trực tuyến đồng bộ. Tỷ lệ học sinh từ tiểu học đến THPT có học bạ số đạt 45,2%. 99% cơ sở giáo dục công lập triển khai thanh toán học phí không dùng tiền mặt.
Nhưng quan trọng hơn, nhiều trường đã đưa kỹ năng số – bao gồm an toàn thông tin, tra cứu thông minh, sử dụng nền tảng AI học tập – vào chương trình hoạt động ngoại khóa, góp phần hình thành công dân số từ sớm.
Dữ liệu số, hạ tầng số và thể chế số là những trụ cột dễ đong đếm. Nhưng kỹ năng số – đặc biệt là nhận thức, tư duy, thói quen số của cộng đồng – mới là trụ cột khó xây, lâu dựng và dễ sụp đổ nếu xem nhẹ.
Với nền móng đã được đặt từ những năm đầu triển khai Đề án 06, với mạng lưới tổ công nghệ số dày đặc và sự chủ động của hệ thống chính trị, Ninh Bình đang đi đúng hướng – đào tạo con người trước khi chạy theo công nghệ.
Không có máy móc nào thay thế được một cộng đồng có năng lực số. Không có ứng dụng nào hữu ích nếu người dân không biết cách dùng, không tin tưởng để sử dụng. Trong hành trình chuyển đổi số, Ninh Bình đã khởi đầu bằng cách đúng đắn nhất: đặt con người làm trung tâm – đặt kỹ năng làm nền tảng.