Diễn đàn lý luận

Xã hội hóa văn học nghệ thuật: Cân bằng giữa sáng tạo và lợi ích kinh tế

Phong Điệp
Lý luận phê bình 10:00 | 30/05/2025
Baovannghe.vn - Xã hội hóa văn học nghệ thuật là quá trình huy động nguồn lực từ tư nhân, doanh nghiệp và cộng đồng để phát triển sáng tạo, phổ biến và thưởng thức nghệ thuật theo đúng quy định pháp luật.
aa

Xã hội hóa không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là sự chuyển đổi về tư duy quản lý văn hóa, từ độc quyền nhà nước sang sự tham gia đa dạng của các thành phần xã hội. Đây là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh chuyển đổi từ cơ chế bao cấp tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn 10 năm sau giải phóng (1975 - 1985), Việt Nam bước vào thời kỳ thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn: nền kinh tế kiệt quệ, hậu quả chiến tranh để lại vô cùng nặng nề, đất nước bị cô lập, cấm vận. Các hoạt động văn học, nghệ thuật trong giai đoạn này nằm dưới sự quản lý tập trung của nhà nước, với nguồn lực chủ yếu từ ngân sách. Các tổ chức như Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, hay các nhà xuất bản quốc doanh (Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Âm nhạc) đóng vai trò trung tâm trong việc định hướng nội dung và phân phối sản phẩm văn hóa. Trong bối cảnh này, khái niệm “xã hội hóa” hầu như chưa xuất hiện. Các hoạt động văn học nghệ thuật chủ yếu mang tính chất tuyên truyền, ca ngợi chiến thắng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, và phản ánh đời sống lao động sản xuất. Tuy nhiên, cơ chế bao cấp bộc lộ nhiều hạn chế: sáng tác thiếu đa dạng, việc phổ biến tác phẩm khó khăn do nguồn lực có hạn, văn học, nghệ thuật phát triển kém linh hoạt, không có động lực cạnh tranh.

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đánh dấu bước ngoặt lịch sử với đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lĩnh vực văn hóa, tinh thần “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật” đã tạo ra một luồng gió mới cho văn học, nghệ thuật. Cùng với đó, chính sách “cởi trói” được thể hiện rất rõ qua Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới”. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã khuyến khích sự tự do sáng tạo, phá bỏ những rào cản cũ, và mở cửa cho sự tham gia của các lực lượng xã hội. Cũng từ đây nhà nước đẩy mạnh khuyến khích tư nhân tham gia vào các hoạt động xuất bản, biểu diễn, và sản xuất nghệ thuật. Điều này phù hợp với xu hướng chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nơi văn học nghệ thuật không chỉ tập trung làm nhiệm vụ tuyên truyền mà còn trở thành sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu đa dạng của công chúng.

Năm 2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trong đó nhấn mạnh việc khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia, cũng như tạo điều kiện cho sự sáng tạo và hội nhập. Gần đây, Kết luận 84-KL/TW ngày 21/6/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW một lần nữa khẳng định vai trò của xã hội hóa trong việc huy động nguồn lực, kết hợp giữa quản lý nhà nước và sự tham gia của cộng đồng. Song song đó, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cụ thể để hỗ trợ quá trình này, như Luật Điện ảnh (sửa đổi) 2022, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào sản xuất phim hay Quyết định 1270/QĐ-TTg (2011) về bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, khuyến khích các tổ chức ngoài nhà nước tham gia. Sự linh hoạt trong quản lý, giảm bớt cơ chế “tiền kiểm” (Nghị định 144/2020/NĐ-CP về nghệ thuật biểu diễn) cũng đã tạo điều kiện cho nghệ sĩ và doanh nghiệp tự do sáng tạo, đồng thời vẫn đảm bảo định hướng phát triển bền vững.

Xã hội hóa văn học nghệ thuật: Cân  bằng giữa sáng tạo và lợi ích kinh tế
Phim "Nhà gia tiên" thành công về mặt thương mại. Ảnh: 17 Productions

Từ những chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và nhà nước, hoạt động xã hội hóa văn học, nghệ thuật đã phát huy hiệu quả tích cực trong thực tiễn. Như trong lĩnh vực xuất bản, sự ra đời của các công ty tư nhân như Phương Nam Book, First News, Nhã Nam, Thaihabooks, Đông A, Alpha Books… và mô hình xuất bản có sự hợp tác giữa đơn vị nhà nước và đơn vị tư nhân đã góp phần đa dạng hóa thị trường sách, kích thích sự sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Các cuộc thi sáng tác văn học do các đơn vị ngoài nhà nước tổ chức ngày càng tạo được ảnh hưởng trong đời sống. Có thể kể đến như Giải thưởng thơ Lá Trầu năm 2008 - giải thưởng văn học tư nhân đầu tiên dành cho các nhà thơ nữ; giải thưởng thơ và tiểu thuyết do công ty sách Bách Việt tổ chức vào các năm 2008, 2009; mạng xã hội Yume tổ chức thi truyện ngắn năm 2011; hay cuộc thi Thơ ca và nguồn cội Làng Chùa do Hội thơ làng Chùa tổ chức hiện đã bước sang mùa thứ ba đã thu hút đông đảo các tác giả trong nước cũng như nước ngoài tham gia.

Bên lĩnh vực nghệ thuật, sự tham gia của khu vực tư nhân vào sản xuất phim, tổ chức triển lãm, biểu diễn sân khấu và âm nhạc đã tạo nên một bức tranh sống động, thay đổi mô hình hoạt động chỉ phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Một ví dụ điển hình là sự phát triển của ngành công nghiệp âm nhạc. Từ cuối thập niên 1980, sự nở rộ các ban nhạc và các ca sĩ tự do như Bức Tường, Sông Hồng, Thăng Long, Mùa Xuân, Hoa Sữa… đã tạo nên một làn sóng mới, thu hút sự quan tâm của giới trẻ và mở ra xu hướng âm nhạc đại chúng. Các nhà sản xuất tư nhân cũng hăng hái đầu tư vào việc ghi âm, phát hành băng đĩa, góp phần đưa âm nhạc Việt Nam tiếp cận gần hơn với công chúng. Trong hoạt động điện ảnh, sự tham gia của tư nhân vào sản xuất phim như Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Em là bà nội của anh, Bố già, Mai, Nhà gia tiên… không chỉ đạt giá trị nghệ thuật mà còn thành công về mặt thương mại, chứng minh hiệu quả của mô hình xã hội hóa. Đồng thời sự hợp tác liên doanh với các đối tác nước ngoài ngày càng được mở rộng, tạo ra những tác phẩm chất lượng như các phim Thời xa vắng, Mùa len trâu, Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Hà Nội - Hà Nội… Ngoài ra, các festival nghệ thuật quốc tế như Liên hoan phim quốc tế, Lễ hội Âm nhạc quốc tế Gió Mùa, Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam… cũng ghi nhận sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, tạo nên sự giao thoa văn hóa trong và ngoài nước. Gần đây, sự phát triển của công nghệ số còn thúc đẩy các nền tảng trực tuyến như Zing MP3, Nhaccuatui, hay các kênh YouTube cá nhân, nơi nghệ sĩ tự do sáng tạo và tiếp cận công chúng mà không phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.

Từ bức tranh sôi động trên đây phần nào cho thấy xã hội hóa văn học, nghệ thuật mang lại nhiều kết quả tích cực, và thể hiện rõ nét ở các mặt sau:

Thứ nhất, về mặt kinh tế, các ngành công nghiệp văn hóa phát triển mạnh mẽ, đóng góp đáng kể vào GDP. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2024, ngành công nghiệp văn hóa đóng góp hơn 4% GDP, trong đó điện ảnh và âm nhạc là những lĩnh vực có đóng góp nổi bật chính nhờ sự tham gia mạnh mẽ của khối tư nhân. Doanh thu phòng vé điện ảnh Việt Nam tăng từ 1.800 tỷ đồng (2015) lên hơn 4.700 tỷ đồng (2024), trong đó phim Mai (2024) đạt 550 tỷ đồng (số liệu được thống kê bởi Box Office Vietnam) và hiện đang đứng đầu doanh thu phòng vé tại Việt Nam.

Thứ hai, xã hội hóa đã thúc đẩy sự phát triển phong phú, đa dạng và sáng tạo trong văn học, nghệ thuật, từ thể loại, nội dung đến hình thức thể hiện, trong mọi lĩnh vực, thể hiện rõ nhất là âm nhạc đại chúng và phim thương mại. Chính sách “cởi trói” và sự cạnh tranh từ thị trường cũng khiến các nghệ sĩ phải đổi mới tư duy, tìm tòi cách tiếp cận mới để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu công chúng. Như trong âm nhạc, các nghệ sĩ độc lập như Sơn Tùng M-TP, Đen Vâu... đã tạo nên làn sóng mới, với hàng trăm triệu lượt xem trên YouTube. Hoặc nghệ thuật truyền thống như múa rối nước, ca trù cũng được hồi sinh nhờ sự đầu tư của các tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp.

Thứ ba, xã hội hóa giúp nâng cao khả năng hội nhập quốc tế trong hoạt động văn học, nghệ thuật. Ngày càng có nhiều bộ phim Việt Nam được trình chiếu phục vụ khán giả các nước, hoặc các triển lãm mỹ thuật của họa sĩ như Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí... được tổ chức ở nước ngoài nhờ sự tài trợ của tư nhân đã để lại dấu ấn với bạn bè quốc tế.

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, quá trình xã hội hóa văn học, nghệ thuật ở Việt Nam cũng bộc lộ không ít hạn chế và thách thức, đòi hỏi cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc. Những vấn đề này không chỉ xuất phát từ bản chất của cơ chế thị trường mà còn từ sự thiếu đồng bộ trong quản lý và định hướng phát triển văn hóa.

Một là, tình trạng thương mại hóa quá mức dẫn đến suy giảm chất lượng nghệ thuật. Sự tham gia mạnh mẽ của tư nhân và áp lực lợi nhuận khiến nhiều sản phẩm văn học, nghệ thuật ưu tiên giải trí đơn thuần, thiếu chiều sâu và giá trị tư tưởng. Trong số các đầu sách bán chạy, chiếm tỷ lệ lớn là sách ngôn tình, sách kỹ năng sống hoặc tự truyện gây tranh cãi vì khai thác scandal hơn là mang giá trị văn hóa. Ở lĩnh vực âm nhạc, các ca khúc nhạc thị trường tuy đạt hàng trăm triệu lượt xem trên YouTube nhưng bị chính cộng đồng mạng phản ứng vì lời lẽ nhảm nhí, phản cảm. Điện ảnh cũng chịu ảnh hưởng, với sự xuất hiện gia tăng các phim hài nhảm hoặc kinh dị rẻ tiền chỉ nhằm câu khách, thiếu đầu tư vào kịch bản và nghệ thuật.

Hai là, sự chênh lệch về đầu tư giữa các lĩnh vực văn học, nghệ thuật gây ra mất cân đối trong phát triển văn hóa. Trong khi điện ảnh và âm nhạc đại chúng thu hút hàng nghìn tỷ đồng từ các nhà đầu tư tư nhân, thì các loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương... lại rơi vào cảnh thiếu kinh phí trầm trọng. Nguyên nhân một phần do thị hiếu công chúng nghiêng về các sản phẩm hiện đại, phần khác do thiếu chiến lược quảng bá và bảo tồn hiệu quả từ phía nhà nước cũng như các tổ chức tư nhân. Hậu quả là nhiều đoàn nghệ thuật truyền thống như phải giảm quy mô hoạt động, thậm chí đứng trước nguy cơ giải thể.

Ba là, khoảng cách vùng miền trong tiếp cận văn hóa ngày càng gia tăng. Quá trình xã hội hóa hiện nay chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, nơi có thị trường tiêu thụ văn hóa phát triển và nguồn lực đầu tư dồi dào. Trong khi đó, các khu vực nông thôn, miền núi, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, lại thiếu cơ hội tiếp cận các sản phẩm văn hóa chất lượng. Điều này không chỉ làm gia tăng bất bình đẳng văn hóa mà còn khiến bản sắc văn hóa vùng miền dần bị mai một khi không được đầu tư đúng mức.

Bốn là, sự quản lý lỏng lẻo tạo kẽ hở cho các sản phẩm phản văn hóa. Việc giảm bớt cơ chế “tiền kiểm” tuy khuyến khích tự do sáng tạo, nhưng cũng dẫn đến tình trạng thiếu kiểm soát chất lượng nội dung. Những năm gần đây, hàng loạt vụ phát hành sách lậu với nội dung sai lệch khiến các đơn vị xuất bản nhiều lần lên tiếng, hay một số bộ phim bị chỉ trích vì cảnh nóng dung tục không phù hợp với thuần phong mỹ tục. Trong lĩnh vực biểu diễn, các chương trình như liveshow của một rapper tại TP. Hồ Chí Minh năm 2023 đã bị phạt vì sử dụng ngôn từ phản cảm và trang phục thiếu văn hóa. Những sự việc này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của công chúng, đặc biệt là giới trẻ, mà còn làm giảm uy tín của quá trình xã hội hóa trong mắt xã hội.

Năm là, thiếu chiến lược dài hạn và sự phối hợp giữa các bên liên quan. Mặc dù nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích xã hội hóa, nhưng việc triển khai còn manh mún, thiếu tầm nhìn toàn diện. Các doanh nghiệp tư nhân thường chỉ đầu tư vào những dự án có lợi nhuận tức thì, trong khi các tổ chức xã hội và cộng đồng chưa được huy động hiệu quả. Điều này dẫn đến tình trạng “mạnh ai nấy làm”, làm giảm hiệu quả tổng thể của quá trình xã hội hóa.

Xã hội hóa văn học nghệ thuật: Cân  bằng giữa sáng tạo và lợi ích kinh tế

Ca sĩ Tùng Dương biểu diễn trong Lễ hội Âm nhạc Gió mùa, một festival nghệ thuật quốc tế để lại ấn tượng tốt trong lòng công chúng. Ảnh: Thuận Lê

Những hạn chế trên cho thấy, xã hội hóa văn học, nghệ thuật tuy mang lại nhiều lợi ích, nhưng nếu không có sự điều tiết phù hợp, sẽ dẫn đến những hệ lụy lâu dài. Đây là bài toán đòi hỏi sự cân bằng giữa tự do sáng tạo, lợi ích kinh tế và trách nhiệm bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. Trong giai đoạn tới, để xã hội hóa hoạt động văn học, nghệ thuật phát huy hiệu quả, cần thực hiện các giải pháp sau:

- Kiểm soát nhằm ngăn chặn thương mại hóa quá mức và nâng cao chất lượng nghệ thuật. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, trong đó cần quy định rõ tiêu chí đánh giá chất lượng nội dung trước khi phát hành. Hoặc áp dụng cơ chế hậu kiểm hiệu quả hơn để thẩm định, xử phạt nghiêm các sản phẩm phản văn hóa hoặc thiếu giá trị nghệ thuật. Đồng thời khuyến khích sáng tạo có chiều sâu như tạo các quỹ hỗ trợ tài chính cho các dự án văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng cao (có thể xem xét thành lập Quỹ Văn học Nghệ thuật Quốc gia); tổ chức các giải thưởng uy tín để tôn vinh những tác phẩm xuất sắc, giảm bớt xu hướng chạy theo lợi nhuận ngắn hạn. Song song đó cần chú trọng giáo dục thẩm mỹ công chúng, đẩy mạnh các chương trình giáo dục thẩm mỹ trong trường học và trên truyền thông đại chúng, như có thể phát động chiến dịch “Nói không với nghệ thuật nhảm nhí” trên mạng xã hội, nhằm định hướng thị hiếu, khuyến khích công chúng ủng hộ các sản phẩm chất lượng thay vì chạy theo trào lưu giải trí đơn thuần.

- Giảm sự chênh lệch đầu tư giữa các lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Áp dụng các chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, đồng thời yêu cầu các dự án xã hội hóa lớn (phim, âm nhạc) dành một tỷ lệ kinh phí nhất định để bảo tồn di sản văn hóa. Xây dựng mô hình hợp tác công-tư (PPP) trong việc phục hồi và phát triển các đoàn nghệ thuật truyền thống, như hỗ trợ các nhà hát nghệ thuật truyền thống hợp tác với doanh nghiệp để tổ chức các chương trình biểu diễn định kỳ, kết hợp với du lịch văn hóa. Song song đó cần tăng cường các hoạt động quảng bá nghệ thuật truyền thống; tận dụng công nghệ số để đưa các loại hình này đến gần hơn với công chúng trẻ, như phát sóng trực tuyến các vở tuồng trên YouTube hoặc xây dựng ứng dụng “Di sản sống” giới thiệu cải lương, múa rối nước bằng hình thức tương tác.

Thu hẹp khoảng cách vùng miền trong tiếp cận văn hóa. Việc phân bổ nguồn lực hợp lý là rất quan trọng bởi vậy Nhà nước cần xây dựng chính sách ưu tiên đầu tư xã hội hóa vào các vùng nông thôn, miền núi, chẳng hạn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tổ chức biểu diễn lưu động tại các vùng miền có địa hình hiểm trở, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La… hoặc xây dựng các thư viện cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa. Chú trọng phát triển không gian văn hóa địa phương, khuyến khích tư nhân tham gia xây dựng các trung tâm văn hóa nhỏ tại các tỉnh, kết hợp giữa bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số và tổ chức sự kiện nghệ thuật. Tăng cường ứng dụng công nghệ: đẩy mạnh các nền tảng trực tuyến như Zing MP3, Nhaccuatui hoặc kênh YouTube chính thức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để phát miễn phí các sản phẩm văn hóa chất lượng đến người dân vùng xa, hoặc tổ chức các cuộc thi sáng tác trực tuyến dành riêng cho nghệ sĩ địa phương.

Tăng cường quản lý để ngăn chặn sản phẩm phản văn hóa, xử phạt nghiêm đối với các hành vi vi phạm. Xem xét tăng mức phạt (phạt tiền, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động) đối với các hành vi vi phạm, công khai danh tính đơn vị/cá nhân để răn đe, ngăn chặn việc tái phạm. Khuyến khích việc tự quản, giao trách nhiệm cho các đơn vị tư nhân trong việc tự kiểm duyệt nội dung trước khi phát hành, kết hợp với cơ chế báo cáo định kỳ gửi cơ quan quản lý để giảm thiểu kẽ hở.

Xây dựng chiến lược dài hạn và tăng cường phối hợp giữa các bên. Cụ thể cần lập kế hoạch tổng thể, trong đó xác định rõ vai trò của xã hội hóa, phân bổ nguồn lực cụ thể cho từng lĩnh vực và khu vực, tránh tình trạng manh mún làm nảy sinh bất cập. Tăng cường hợp tác ba bên gồm: Nhà nước - doanh nghiệp - cộng đồng để phát huy hiệu quả từ các nguồn lực. Tăng cường học hỏi quốc tế. Có thể tham khảo kinh nghiệm từ Hàn Quốc (hỗ trợ nghệ thuật truyền thống bằng quỹ đầu tư công-tư) hoặc Nhật Bản (phát triển văn hóa địa phương qua mô hình “One Village, One Product” - Mỗi làng một sản phẩm) để áp dụng linh hoạt vào Việt Nam, vừa bảo tồn bản sắc vừa thúc đẩy kinh tế văn hóa. Thúc đẩy hội nhập quốc tế như một giải pháp bổ trợ. Nhà nước và tư nhân nên hợp tác trong các dự án xuyên biên giới, như đưa phim Việt lên Netflix, dịch thuật tác phẩm văn học bằng nhiều thứ tiếng để xuất bản ở nước ngoài, tổ chức các festival nghệ thuật quốc tế có sự tài trợ từ doanh nghiệp.

Xã hội hóa hoạt động văn học, nghệ thuật ở Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, đã mang lại những thành tựu đáng kể, tiếp tục khẳng định vai trò của văn hóa trong sự phát triển đất nước. Xã hội hóa không chỉ là giải pháp kinh tế mà còn là con đường để văn hóa Việt Nam khẳng định bản sắc trong thời đại toàn cầu hóa. Tuy nhiên, để xã hội hóa thực sự bền vững, cần có sự cân bằng giữa tự do sáng tạo và định hướng tư tưởng, giữa lợi ích kinh tế và giá trị văn hóa. Trong tương lai, với sự phát triển của công nghệ và toàn cầu hóa, xã hội hóa cần được đẩy mạnh hơn nữa, kết hợp nguồn lực trong nước, quốc tế và sự tham gia tích cực của cộng đồng, qua đó đưa văn hóa Việt Nam không ngừng vươn xa.

Hội thảo quốc gia “Phụ nữ với 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam”

Hội thảo quốc gia “Phụ nữ với 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam”

Baovannghe.vn - Sáng 11/6, tại Hà Nội, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề Phụ nữ với 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam.
Quốc hội quyết nghị: Cả nước còn 34 tỉnh, thành phố từ ngày 12/6

Quốc hội quyết nghị: Cả nước còn 34 tỉnh, thành phố từ ngày 12/6

Baovannghe.vn - Với 461/465 đại biểu Quốc hội tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025.
Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương

Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương

Chiều 11/6, tại Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chủ trì buổi làm việc với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương về tình hình thực hiện nhiệm vụ sau khi hợp nhất đến nay.
Đời nguời một chuyến đi xa - Thơ Nguyễn Ngọc Quế

Đời nguời một chuyến đi xa - Thơ Nguyễn Ngọc Quế

Baovannghe.vn- Đời người một chuyến đi xa/ Trên con tàu tốc hành vạn dặm
Đọc truyện: Đá đỏ - Truyện ngắn của Phan Xuân Hậu

Đọc truyện: Đá đỏ - Truyện ngắn của Phan Xuân Hậu

Baovannghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương