Văn hóa nghệ thuật

Người viết nhạc cho độc lập dân tộc

Nguyên Đức
Âm nhạc 08:00 | 01/09/2025
Baovannghe.vn- Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiện đại, hiếm có một nhạc phẩm nào gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc như Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao. Và cũng hiếm có một nghệ sĩ nào mà tên tuổi, sự nghiệp, cuộc đời lại song hành đến vậy cùng những mốc son lịch sử
aa
Người viết nhạc cho độc lập dân tộc
Nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: TL.

Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiện đại, hiếm có một nhạc phẩm nào gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc như Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao. Và cũng hiếm có một nghệ sĩ nào mà tên tuổi, sự nghiệp, cuộc đời lại song hành đến vậy cùng những mốc son lịch sử: Cách mạng Tháng Tám 1945 và ngày Quốc khánh 2/9. Từ một chàng trai trẻ tuổi, say mê nghệ thuật, Văn Cao đã trở thành “người viết nhạc cho độc lập dân tộc”, để lại khúc tráng ca bất tử mang tên Tiến quân ca.

Dấu chân cách mạng thuở ban đầu

Nhạc sĩ Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Hải Phòng trong một gia đình viên chức nhỏ. Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã bộc lộ năng khiếu hội họa và âm nhạc. Ông học đàn, học vẽ, tự mày mò sáng tác những giai điệu đầu tiên. Tuổi niên thiếu ở Hải Phòng và những ngày lên Hà Nội học tập đã đưa ông đến gần với đời sống nghệ thuật, đồng thời chạm tới những mạch ngầm sục sôi của phong trào yêu nước.

Năm 1943, Văn Cao tham gia hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh, trở thành một thành viên đội “trừ gian”, đồng thời sáng tác nhiều ca khúc yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng… Ông còn viết báo, làm thơ, vẽ tranh, tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Âm nhạc, với Văn Cao, từ sớm đã không chỉ là nghệ thuật, mà còn là một hình thức đấu tranh, một tiếng gọi của lương tri.

Mùa đông năm 1944, Hà Nội như khoác lên mình tấm áo xám xịt của đói nghèo và khổ cực. Trong cái giá lạnh thấm vào từng mái nhà, từng góc phố ấy, Văn Cao tình cờ gặp Vũ Quý là một cán bộ Việt Minh, đồng thời cũng là người vẫn lặng lẽ dõi theo những giai điệu ông viết ra. Giữa cuộc gặp gỡ chan chứa niềm tin và nhiệt huyết, Vũ Quý khuyên Văn Cao hãy thoát ly, bước hẳn vào con đường hoạt động cách mạng. Không chỉ dừng ở lời động viên, Vũ Quý còn trao cho ông một sứ mệnh thiêng liêng: viết một bài ca cho quân đội cách mạng. Đó phải là một khúc nhạc như tiếng kèn xung trận, như hiệu lệnh giục giã đoàn quân lên đường.

Khi ấy, Văn Cao thành thật nói rằng mình chưa một lần cầm súng, chưa từng đặt chân đến chiến khu, chưa hề gặp gỡ những người lính đang ngày đêm chiến đấu. Ông chỉ quen thuộc với những con phố của Hà Nội: Phố Ga, Hàng Bông, Bờ Hồ… - những nơi gắn bó với đời sống thị dân hơn là khí thế trận mạc. Nhưng chính từ lòng phố ấy, trong tiếng xào xạc của mùa đông và những bước chân hối hả của người dân, ông ấp ủ ý tưởng: phải viết một bản nhạc thật giản dị, để bất cứ ai từ cán bộ, chiến sĩ nơi mặt trận cho tới bà mẹ quê, từ em nhỏ bán báo cho tới người thợ thuyền… đều có thể cất lên tiếng hát.

Trong căn gác hẹp ở số 45 Nguyễn Thượng Hiền, giữa cái rét cắt da, Văn Cao cặm cụi mày mò từng nốt nhạc, từng lời ca. Ông sống cùng hơi thở của phố phường, lắng nghe nhịp bước đời thường mà gửi gắm vào giai điệu. Và rồi, Tiến quân ca ra đời. Ca khúc thực sự là khúc quân hành tràn đầy khí thế với giai điệu hùng tráng mà mộc mạc, nhịp điệu thôi thúc, mở đầu bằng những câu hát dồn dập, vang lên như bước chân ra trận của cả một dân tộc: Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc/ Bước chân rộn vang trên đường gập ghềnh xa…

Nhạc sĩ từng nhớ lại: “Nhịp điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng”. Khi Văn Cao hát cho Vũ Quý nghe lần đầu, ông xúc động kể: “Da mặt anh đen sạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh”. Đó là dấu hiệu cho khúc tráng ca đã chạm vào trái tim, cảm xúc và mang hơi thở của thời đại.

Tháng 11 năm 1944, Tiến quân ca lần đầu tiên xuất hiện trên Báo Độc lập, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Việt Minh. Đây là một sự kiện đặc biệt, bởi khi ấy người thợ in không biết cách ghi nốt nhạc, chỉ có thể in được phần lời. Để ca khúc đến với mọi người trọn vẹn cả thanh âm lẫn giai điệu, Văn Cao phải lặn lội xuống cơ sở in bí mật ở làng gốm Bát Tràng, kiên nhẫn tự tay chép từng khuông nhạc, từng nốt nhạc lên đá in.

Từ đó, bản nhạc nhỏ bé ấy mang sức sống phi thường, dần dần lan tỏa như ngọn lửa thắp sáng khắp nơi. Tiếng ca vượt qua những con phố Hà Nội, theo chân người chiến sĩ ra chiến khu, hòa vào đội ngũ tự vệ, rồi vang vọng trong những bước chân thanh niên hăng hái xuống đường. Tiến quân ca không chỉ là khúc hát, mà đã trở thành niềm tin, thành khí thế thúc giục cả một thế hệ đứng lên giành độc lập.

Ngày 17 tháng 8 năm 1945, tại quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, trong biển người cuồn cuộn khí thế cách mạng, một thành viên của Đội danh dự Việt Minh bất ngờ tung lá cờ đỏ sao vàng từ bao lơn xuống, rồi cất giọng hát vang Tiến quân ca qua chiếc micro. Trong giây phút bùng nổ ấy, cả biển người dưới quảng trường như hòa làm một, vỡ òa trong xúc động, cùng nhau cất tiếng hát vang trời. Lời ca dồn dập, vang dội như sấm rền, cuốn theo làn sóng người đang dâng trào khí thế cách mạng. Và chính trong khoảnh khắc thiêng liêng đó, Tiến quân ca đã không còn là của riêng người nhạc sĩ, mà trở thành của nhân dân, của dân tộc, một khúc ca chung cho cả một thời đại đứng lên giành độc lập.

Chỉ hai ngày sau, vào ngày 19 tháng 8, cũng tại quảng trường Nhà hát Lớn, khi hàng vạn quần chúng sục sôi giành chính quyền, tiếng hát Tiến quân ca lại vang lên, đồng loạt và hùng tráng. Không ai bảo ai, từ người công nhân, học sinh, trí thức đến bà con lao động đều hát trong cùng một nhịp bước. Chính từ những ngày sôi sục của Cách mạng Tháng Tám, Tiến quân ca đã trở thành “quốc ca không chính thức”, trở thành khúc hát chung của dân tộc trên con đường giành độc lập.

Giây phút độc lập thiêng liêng gắn bó cuộc đời nghệ sĩ

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tiến quân ca vang lên từ dàn nhạc Giải phóng quân do nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên chỉ huy. Trong khoảnh khắc thiêng liêng ấy, giai điệu hào hùng của Văn Cao hòa cùng tiếng reo hò vang dậy, xen lẫn cả những giọt nước mắt xúc động và nụ cười rạng rỡ của hàng chục vạn đồng bào có mặt nơi quảng trường. Tiếng nhạc không chỉ cất lên như một nghi thức long trọng, mà còn như linh hồn của một dân tộc vừa giành lại quyền sống, quyền tự do. Từ giây phút thiêng liêng ấy, Tiến quân ca chính thức trở thành Quốc ca của dân tộc. Người thanh niên mới 22 tuổi, người chưa từng cầm gươm súng, chưa một lần ra chiến khu, chỉ với cây đàn, tấm lòng yêu nước và khát vọng độc lập, đã viết nên khúc ca bất tử.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Văn Cao tiếp tục cống hiến. Ông sáng tác nhiều ca khúc mang âm hưởng sử thi: Tiến về Hà Nội, Trường ca Sông Lô, Không quân Việt Nam, Ca ngợi Hồ Chủ tịch… Âm nhạc của ông vừa là tiếng kèn xung trận, vừa là khúc hát ngợi ca đất nước mới.

Bên cạnh những khúc ca hào sảng, gắn liền với vận mệnh dân tộc, Văn Cao còn là tác giả của nhiều bản tình ca lãng mạn đã trở thành một phần ký ức văn hóa của người Việt: Suối mơ, Bến xuân, Trương Chi… Mỗi ca khúc ấy đều mang trong mình một thế giới riêng: trong trẻo, mơ mộng mà cũng chan chứa tình tự. Ở Suối mơ, người ta bắt gặp vẻ đẹp dịu dàng của thiên nhiên, nơi dòng suối như ngân vang tiếng hát của đất trời. Trong Bến xuân, có tiếng tơ lòng thổn thức, có sự giao hòa giữa đất trời và lòng người, giữa thiên nhiên và khát vọng tình yêu. Còn Trương Chi lại thấm đẫm nỗi u buồn cổ tích, vang vọng như tiếng gọi của một tâm hồn đa cảm, cô đơn mà tha thiết với cái đẹp.

Chính những giai điệu ấy đã bộc lộ một Văn Cao thi sĩ, bên trong người nhạc sĩ cách mạng hùng tráng là một tâm hồn lãng mạn, tinh tế, luôn khát khao hướng tới cái đẹp, say mê cuộc đời và trân trọng từng cung bậc tình yêu.

Ngoài âm nhạc, Văn Cao còn để lại dấu ấn trong hội họa và thi ca. Ông vẽ tranh với những nét bút phóng khoáng mà tinh tế, sáng tác thơ với giọng điệu vừa lãng mạn vừa giàu chiêm nghiệm. Ở bất kỳ lĩnh vực nào, Văn Cao cũng giữ cho mình một phong cách riêng: luôn tinh tế, nhân văn, và không bao giờ tách rời vận mệnh của đất nước.

Năm 1995, Văn Cao trút hơi thở cuối cùng tại Hà Nội, để lại một khoảng lặng lớn trong đời sống tinh thần của đất nước. Ngày tiễn đưa ông, hàng triệu trái tim cùng chung một niềm tiếc thương vô hạn. Người dân, bạn bè, đồng chí, những người yêu nhạc khắp mọi miền đã gọi ông bằng một danh xưng giản dị mà cao quý: “Người viết nhạc cho độc lập dân tộc”. Và từ đó, tên tuổi Văn Cao mãi mãi sống cùng Tổ quốc, như chính giai điệu bất tử của Tiến quân ca vẫn ngân vang trong từng lễ chào cờ, trong từng nhịp bước dựng xây đất nước hôm nay và mai sau.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn