1.
Hôm nay, tôi mở cửa muộn hơn mọi ngày. Cửa hàng thuốc thú y của tôi vốn là duy nhất ở thị trấn nhỏ miền núi này. Vì thế luôn có những người khách mãi tận trên Pú Giàng, Tằng Khá, Bươn Hóc… xuống đợi mua thuốc từ sáng sớm. Trời đã vào giữa thu. Trên những tán cây ven con đường lớn dẫn vào thị trấn bỗng đổ loang một màu úa vàng. Gió than thở rì rầm suốt đêm. Mùa thu ở đây thường đến từ trên những dãy núi cao tràn về. Ban đầu chỉ là gió hanh khô, sau đó là nắng chát chúa và lá cây cũng đổ vàng trước khi tiết thu kéo đến. Nhưng trong khoảnh khắc này, tôi vẫn muốn nằm thêm vài phút để nghe hơi lạnh thấm qua khe cửa trườn vào căn phòng vào buổi sáng. Tôi chợt nhớ cái lạnh quen thuộc ba năm về trước trên núi Vá. Tiết trời thường gợi người ta nghĩ về những điều đã đi qua cuộc đời mình. Vậy mà tôi chẳng thể nằm yên được bởi những tiếng ồn ào ngoài cửa. Đám trẻ con hiếu động trong phố đang gọi nhau í ới chực kéo tôi ra khỏi những miên man:
- Lại mà xem bà điên bế đá chúng mày ơi...!
- A… ha… ha… đúng là bà dở người.
![]() |
Minh họa Ngô Xuân Khôi |
Tôi trở mình lười biếng bật cười. Trộm nghĩ cuộc đời này khiến người ta điên dở hết cả thảy chứ chẳng riêng ai. Đám trẻ đâu biết rằng làm người lớn và kẻ điên chỉ cách nhau cái ranh giới mỏng như sợi tóc. Cứ hồn nhiên mãi được như con trẻ, thì thế gian này chẳng ai muốn thành người lớn.
- Ô… hô, bà điên tưởng hòn đá là con…!
Có người bế đá làm con ư? Sao tôi nghe quen quá. Liệu có phải? Tôi vội vã bước ra ngoài. Phía bên kia đường, đám người hiếu kì đứng lố nhố quanh một người phụ nữ vận rất nhiều lớp áo quần, nhưng tả tơi chắp vá, rách nát. Người ấy ngồi co người sau góc tường cúi đầu sợ hãi. Tôi rẽ đám đông bước tới thì người đàn bà ấy vụt lao đi. Bóng người lướt qua mặt tôi trong nháy mắt, trên tay vẫn ôm chặt một bọc quấn vải như đứa trẻ. Đúng rồi! Trời ơi! Chị Sú! Đúng là chị Sú rồi! Sao có thể chứ? Đã ba năm rồi tôi cứ nghĩ chị đã chết. Tôi lao theo bóng chị về phía bờ sông. Trời hun hút gió sớm. Trong thoáng chốc đã không còn thấy bóng người. Một lần nữa tôi lại mất dấu chị ngay trước mắt.
Đám người lao xao phía sau lưng: Phía trong bọc ấy là một hòn đá!
2.
Có tiếng hát ru ngoài cửa sổ, nghe như tiếng nước xối vào hõm đá trong đêm lũ. Khi lại như tiếng cười khô, rờn rợn vọng lại. Không! Đó là tiếng dê kêu, tôi nhận ra tiếng kêu của con Tễnh. Tiếng kêu lạ, thống thiết của nó có lẽ không phải của loài dê trên cõi đời này. Con Tễnh đẻ. Nó đi từ trong chái lều rải đầy cỏ khô trở ra. Kéo lê theo con dê mới sinh và đám nhau thai thòng thõng đứng nhìn tôi. Đám nhau thai bầy nhầy máu tươi trườn tới như một đám rắn khổng lồ. Đôi con mắt tứa ra hai dòng nước lờ nhờ phớt hồng như nước ối thai đang rỏ tanh tách xuống nền cỏ. Một thứ mùi tanh tưởi xồng xộc ào đến. Hãi! Hãi quá!
- Dừng lại! Mày điên rồi, con Tễnh điên thật rồi!
- Ngon quá! Chắc lại được bữa….
Khuôn mặt gớm ghiếc, đầy sẹo của lão Khán đứng phía sau dật dờ tiến lại. Tay lão cầm một cây kéo chực cắt đám nhau thai của con dê cho xổ thẳng xuống chiếc chậu nhôm đen kịt, méo mó đang chờ sẵn…
To…Tò…T…ó…t…Tót!
Tiếng còi xe rúc lên một hồi dài. Giấc mơ ám ảnh làm tôi ê ẩm khắp thân mình, cổ họng khô rát như bếp lò ủ than. Uể oải ngó ra ngoài cửa, đám trẻ con lại nô đùa trên mấy cây hoa giấy.
Đã ba ngày đi kiếm tìm chị Sú. Tôi đã lật tung cả cái thị trấn nhỏ bé này, cũng đã đi khắp hai bên bờ con sông lớn để tìm dấu vết của chị trên những bãi đá cạn. Vậy mà chẳng thấy bóng dáng của chị. Những người ở nơi này nói với tôi có loáng thoáng gặp một người đàn bà điên, ôm bọc vải rất nặng đôi lần ở phía bờ sông. Nhưng tôi không thể tìm được chị sau lần gặp chớp nhoáng hôm ấy. Đất trời mênh mông quá! Giờ chị ở đâu chị Sú? Pả mù có linh thiêng thì hãy dẫn đường cho tôi gặp lại chị. Như những gì tôi đã hứa với bà lúc bà nằm lại giữa vườn hồng trên đất Pú Giàng mây trắng heo hút… Tôi nằm trong nhà nhìn về phía núi Vá. Mùa này trên ấy có lẽ đã sang đông. Một phần tuổi trẻ ngông cuồng của tôi đã gửi lại nơi ấy. Những ngã rẽ cuộc đời đầy ám ảnh trong tôi vẫn còn vẹn nguyên trên vùng núi cao vời vợi ấy. Tôi không quên, và sẽ chẳng bao giờ dám quên.
3.
Mười năm trước, tôi lên Pú Giàng khi vừa cầm trong tay chiếc bằng tốt nghiệp đại học ngành chăn nuôi thú y. Đó là một ngày trời đổ mưa tầm tã. Những đám mây nặng nề lũ lượt kéo đến vần vũ trên đầu. Sau nhiều đắn đo và dằn vặt, tôi quyết rời căn nhà gỗ dưới cánh rừng thông ở thị trấn nhỏ quen thuộc. Tôi sẽ chứng minh cho bố thấy, đàn ông không thể mềm yếu và hèn nhát. Giới hạn của những thằng đàn ông là đường chân trời chứ không phải phía sau cánh cửa của những ngôi nhà. Bỏ ngoài tai tất cả những gì tôi nói. Trong hơi thở nồng nặc thứ rượu khê nồng, bố đã hét vào mặt tôi rằng:
- Rồi cuộc đời sẽ nghiến mày nát bươm như nắm giẻ lau thôi!
- Gia đình này cũng rách nát từ lâu rồi bố ạ!
- Mày…?
Không hiểu sao khi ấy tôi đã trả lời bố như thế. Tôi khoác ba lô lên vai và lao ra khỏi nhà. Phía sau lưng bố tôi đã ngã đổ như thân cây bị đốn ngang trên chiếc ghế da lở loét cũ nát giữa căn nhà. Từ ngày mẹ tôi rời đi không một lời từ biệt, bố tôi trở thành một kẻ cô đơn nghiệt ngã với rượu. Chính sự cô đơn ấy đã biến ông thành một người có vẻ bề ngoài luôn cứng cỏi, nhưng thẳm sâu lại yếu mềm và dễ rạn nứt vô cùng. Ông không dám đi gặp mẹ tôi và gã đàn ông đã cướp mẹ đi dù họ ở cách đó không xa. Còn tôi không muốn trở thành một người cố gồng mình như bố. Tôi ghét sự giả tạo và yếu hèn đó. Tôi đã không còn oán trách mẹ như những ngày còn bé, tôi trở thành một một kẻ lì lợm, thích xông pha nhưng dường như tôi cũng cô đơn như bố.
Không phải ngẫu nhiên tôi lại chọn vùng đất Pú Giàng làm nơi gắn bó khi rời đi. Điều ấy đã xuất hiện trong đầu tôi từ vào một năm về trước, trong lần đến chơi một người bạn học chung lớp đại học. Nhà bạn tôi nằm mãi sau những dãy núi dài lê thê. Trên đường đi ngang qua Pú Giàng. Tôi đã mê mải nhìn lên những dãy núi đá cao vợi, lấp loá trong ánh nắng ngày hè. Những vạt cỏ dại trên những vàn núi dập dờ trong gió thổi. Đâu đó vẳng lên những tiếng dê kêu lẫn vào tiếng suối vang lên thao thiết và buồn xa vắng. Những mái nhà sàn rêu mốc nằm lấp ló sau rừng cây xanh rì. Tôi cứ đứng đó mà ngắm nhìn, đắm chìm trong những suy tưởng. Tôi đã ao ước có một cuộc sống thật tự do, dù có cô đơn hay nghèo túng đi chăng nữa. Tôi muốn kiếm tìm sự bình yên và buông bỏ những muộn phiền ở một nơi như thế này. Ý định ấy cứ lớn dần và dai dẳng theo tôi mãi sau này khi trở về trường.
4.
Sau vài ngày vật lộn, kiếm tìm và suy tính. Cuối cùng tôi quyết thuê một khoảng đất đủ rộng để dựng nhà và cho những dự tính trong tương lai. Đất ấy là của lão Sình, nó vốn là sườn núi đá đã được phá lâm canh tác lâu đời. Theo lời của lão, thì mảnh đất ấy từ thời ông nội lão đã phá để trồng cây thuốc phiện. Sau này lão trồng ngô, mỗi năm một vụ, được mùa được giá nhất cũng chỉ đủ mua hai con dê giống. Tôi nói với lão mình sẽ thuê mười năm. Tiền thuê mỗi nằm bằng một vụ ngô được mùa của lão.
- Ba triệu! Không hơn không kém.
Lão nghe thế cười hềnh hệch khoe chiếc răng cửa cuối cùng bọc vàng bảo: Thế thì năm nào lão cũng sẽ được mùa ngô đấy! Nói xong, như chợt nghĩ ra điều gì, mặt lão bỗng se lại, hồi lâu lão mới khịt khịt mũi lắc đầu:
- Không được!
Tôi đang mải nhìn xuống chân núi, nghe tiếng nước suối xối vào vách đá miệt mài ngày đêm vọng lại:
- Vậy cháu thuê năm năm cũng được.
- Lão Sình vẫn lắc đầu:
- Không phải lão không muốn cho mày thuê. Mà mày sẽ không ở được lâu thế đâu.
- Nhất định lâu thế.
- Không tin mấy thằng tay trắng hơn mặt được.
Lão nhìn tôi bằng con mắt hoài nghi. Lão không tin một thằng trai như tôi có thể ở lại nơi heo hút xa lạ này mười năm. Lão nghĩ tôi chỉ là kẻ điên khùng, hoặc quá ngông cuồng khi chưa bị cái khốn cùng của cuộc đời đẩy cho sấp mặt. Có lẽ lão nghĩ thế nên trong ánh mắt có nhiều đắn đo dù lão biết mình sẽ kiếm được những món tiền khi tôi ở lại trên mảnh nương của lão. Nhưng lão đâu có biết rằng đến tôi cũng chẳng dám tin là mình có thể sống được ở nơi này nữa là người khác. Nhưng tôi đã quyết, tôi sẽ lấy tri thức, dùng trí tuệ của mình để xây dựng cuộc sống của riêng tôi. Chẳng phải trên giảng đường các thầy cô vẫn dạy cho chúng tôi rằng sức mạnh của tri thức sẽ soi tỏ những con đường tăm tối nhất, sẽ là đôi mắt sáng của những kẻ mù loà hay sao. Cuộc đời sẽ bị tôi cười mỉa vào. Cuộc đời sẽ không xé nát bươm tôi được như những gì bố đã nói lúc tôi rời căn nhà dưới rừng thông.
Tôi lựa khoảng đất trống, bằng phẳng nằm giữa sườn núi. Dựng một căn chòi lá tựa lưng vào sống đá, cửa hướng về phía suối đón gió. Còn khoảng đất bên cạnh và phía sau sẽ là chuồng dê và chuồng gà. Với kiến thức chăn nuôi thú y học ở trường và những điều tự mày mò nghiên cứu. Chắc chắn tôi sẽ xây dựng được một trang trại dê. Đàn dê của tôi sẽ ngày một đông đúc. Chất lượng thịt dê núi đá sạch và ngon nhất vùng này vốn được các quán ăn nhậu ở khắp nơi săn tìm. Đám người giàu sẽ trả mọi giá cho cái thú lấp đầy dạ dày mình. Thịt dê, tiết canh dê, rượu ngọc dê chẳng phải được đám đàn ông đỏ mắt tìm ngày đầu tháng đó sao. Họ sẽ tìm phải tìm đến tôi, khi ấy người đời sẽ phải nhìn tôi bằng con mắt khác. Bố tôi sẽ phải công nhận những điều tôi làm hôm nay, và nhỡ đâu mẹ tôi sẽ hối hận vì đã bỏ rơi tôi ngày ấy... Nghĩ tới viễn cảnh trong tương lai, tôi thấy máu mình sôi lên trong lồng ngực.
Căn chòi lá canh dê nằm chênh vênh trên sườn núi hoàn thành sau những ngày nỗ lực của tôi và đám trai bản được tôi thuê về giúp sức. Bây giờ tôi mới nhận ra chỉ có một mình tôi sống giữa vạt rừng vắng lặng. Những ngôi nhà khác đều tập trung ở dưới núi. Chỗ tôi ở vốn vắng người qua lại, thi thoảng mới có bóng người len vào con đường mòn nhỏ lên núi hái thuốc hoặc đi săn thú. Những đêm đầu ngủ lại trong căn chòi lá nghe gió xào xạc vờn trên những ngọn cây phía trước nhà, trăng non dìu dịu, thấm qua lớp sương mỏng như muốn rung lên khi có tiếng chim tang tác kêu gọi bầy… trong lòng tôi vẩn lên bao ý nghĩ. Tôi chợt hoài nghi về những điều mình đã chọn, không biết tôi có đang đi đúng con đường tôi muốn hay không? Hay mỗi khi chiều xuống, cảnh sắc hoang vắng cùng nỗi cô đơn trong lòng càng khiến tôi thêm sầu não. Tôi bỗng thấy nhớ căn nhà dưới rừng thông da diết, nhớ con phố nhỏ cũ kĩ chật chội tiếng rao vặt vào mỗi buổi chiều. Và tôi nhớ bố… không hiểu sao mỗi lần nghĩ về bố thì nước mắt tôi bỗng trào ra trong vô thức. Những lí tưởng ngày đầu tôi mang theo lên vùng đất này chợt tan biến đâu mất. Thằng hèn! Mày là một thằng chết nhát như đám chuột con. Vậy mà mày đòi tìm giới hạn ở đường chân trời! Tôi tự sỉ vả mình như thế rồi nằm lăn lóc giữa căn chòi mà thiếp đi trong hơi rượu. Tôi không rõ mình đã biết uống rượu từ bao giờ. Tôi soi mình trong gương, đám râu tóc đua nhau chìa ra khiến tôi già đi trông thấy. Tôi tự cười đau khổ khi mình chẳng khác đám trai bản nơi này là bao. Thậm chí tôi còn thất thểu và ủ rũ hơn họ đến mấy lần.
Rồi nỗi buồn cũng nguôi ngoai. Tôi dốc sạch số tiền tiết kiệm từ những ngày đi làm thêm hồi sinh viên để mua những con dê đầu tiên về thả trong khoảng đất sau nhà. Thêm dăm bảy chú gà con nhiêm nhiếp nữa là đủ để làm tôi vui hơn trước. Một ngày tôi nhìn sang bên kia con suối, chợt có khói vẩn lên nền trời sau vạt cây cao. Lại lắng tai nghe như có tiếng người đang hát vẳng lại. Tôi chợt nhớ có lần lão Sình nói với tôi bằng ánh mắt đầy hăm dọa rằng:
- Mày đừng có ngứa chân mà sang bên kia suối…
Tôi nghe có chột dạ nhưng chưa tin vào lời của lão Sình. Đó chỉ là lời hăm dọa tầm phào, hơn nữa tôi chẳng có nhiều thời gian mà lai vãng sang bên kia con suối làm gì. Nhưng bây giờ thì khác, tôi bỗng muốn mình không phải là người cô đơn ở chốn này. Ít nhất tôi cũng có hàng xóm, dù không kề vách nhau nhưng chỉ cần nghe tiếng người qua lại hằng ngày có lẽ tôi sẽ bớt đi nỗi buồn và tẻ nhạt hơn biết mấy.
Một đêm gần giữa tháng. Trăng chưa tròn hẳn nhưng ánh trăng chảy tràn lấp lánh đổ xuống cả vạt rừng mênh mông. Rừng đêm thâm u, chợt mềm mại như được phủ một lớp khăn nhung dệt bằng thứ ánh sáng bàng bạc. Có lẽ không nơi nào trăng đẹp và ở gần hơn nơi này. Tôi ngồi ngắm trăng và nhìn lơ đãng xuống phía trước nhà. Hình như có tiếng khua nước từ phía suối vọng lên. Trong đêm vắng, tiếng nước xô vào vách đá như tiếng thở dài trong gió. Tôi lắng tai nghe hình như lại có tiếng hát rất khẽ, nghe kĩ thì chẳng phải là giai điệu bài hát. Hay là ma? Không thể nào! Vì trời còn quá sớm. Trăng mới lên chưa được nửa cầu vồng. Tôi đánh bạo đi xuống suối, sương rơi ràn rạt trên mặt lá lấp lánh. Cứ theo tiếng hát mà vạch lá tìm tới, đi mãi tôi cũng ngó được sang phía bên kia bờ. Kia rồi nhìn kĩ có bóng người đang tắm suối. Hơi lạnh khi đêm xuống đã vây quanh, vậy mà người ấy vẫn ngụp lặn dưới dòng nước đang cuộn chảy. Bóng nước lấp loáng lăn dài những đợt sóng dát vàng dưới ánh trăng. Đâu đó người tắm khoan thai nằm xoãi người dưới trăng. Một chân đàn bà gác lên chiếc thùng gỗ đựng nước. Tay đàn bà cầm chiếc khăn vừa quay vòng trên không vừa hát. Tiếng hát ngân nga nghe rất da diết nhưng không thành lời, những đường cong oằn lên, phập phồng nhấp nhô nửa kín nửa hớ hênh vẫy gọi vụt sáng dưới ánh trăng. Vẻ đẹp vừa trần tục, vừa lộng lẫy ngay trước mắt làm trống ngực tôi đập mạnh đến nghẹt thở. Tôi không nhớ rõ cảm xúc của mình vào giây phút ấy chính xác là thế nào. Ở không gian này, giữa núi rừng hoang vắng và khung cảnh đẹp mơ hồ đến thế. Thì sự ám ảnh ấy thật khó để người ta dứt ra ngay lập tức. Đẹp quá! Từ vị trí này có thể nhìn nửa khuôn mặt của người phụ nữ. Một vẻ đẹp thánh thiện và bình thản đến lạ. Và ánh trăng, mặt nước bạc vô tình làm trở thành một phông nền hoàn hảo cho những đường nét ấy…
Mày là thằng khốn nạn! Tôi tự mắng khi nhận ra mình vẫn đang nhìn trộm người đàn bà ấy. Định quay đầu chạy ngược con dốc trở về, tôi bỗng nhận ra một bóng người đứng cách đó không xa. Tôi giật mình kinh hãi khi người ấy quay mặt nhìn về phía tôi. Dưới ánh trăng mờ, khuôn mặt một gã đàn ông đang cười nham nhở. Đâu đấy hắn chầm chậm rời đi như một bóng ma. Tôi chạy về nằm vật ra giữa sàn ngước nhìn ra ngoài, mặt trăng lênh đênh như cánh bông trắng trôi giữa trời mà nghe hơi nóng đang sôi réo trong ngực. Đêm ấy tôi nằm mơ, tôi thấy mình nằm bên cạnh một người đàn bà không rõ mặt. Hơi ấm từ bầu ngực, từ làn da mềm mại bỗng đổ ập, phủ trùm quấn riết lấy tôi. Tôi rùng mình khi mạch suối nóng bỏng của tuổi trẻ bỗng phun trào trong vô thức. Tôi thức giấc giữa đêm, gió thổi như bước chân mèo hoang trên vách đá. Trăng như biến thành mặt lão già méo mó cười nhếch mép, quẳng cái nhìn bí hiểm về phía tôi trong thinh vắng đến rợn người.
5.
Những ngày vui chẳng kéo dài bao lâu. Đàn dê của tôi bắt đầu nhiễm bệnh. Bắt đầu từ con dê đực duy nhất trong đàn, thường ngày nó vẫn là đứa đầu đàn háu ăn và nghịch ngợm lao ra khỏi chuồng vào mỗi sáng sớm. Nhưng chỉ sau một đêm mà nó nằm một chỗ, bọt trắng trào ra hai bên mép phập phồng, bốn chân co giật từng hồi, đôi cặp mắt như than hồng trong bếp lửa. Có lẽ nó sắp phát điên. Tôi lần lại trong trí nhớ và những gì đã được học, nhưng vẫn không đoán được nó mắc căn bệnh gì. Những thứ thuốc tôi mua hòng cứu mạng con dê dưới trung tâm huyện đều không có tác dụng. Đến chiều tối ngày hôm sau thì con dê chết, đôi mắt nó vằn lên những tia máu đỏ đáng sợ. Tôi buồn bã đem con dê lên đỉnh núi chôn xuống hốc đá. Trở về nhà mà lòng như có gì đó mất mát rất lớn, lớn hơn nhiều so với sự mất mát của một con dê. Có lẽ có điều gì đó vừa đổ sụp, vỡ vụn ở trong tôi vào giây phút ấy.
Ba ngày sau tôi đã mất đến con dê thứ bảy. Chỉ còn con Tễnh cuối cùng trong đàn là còn khoẻ mạnh. Nó đang mang thai, chỉ chừng ba tháng nữa tôi sẽ có thêm một chú dê con. Con Tễnh bị què một chân, tôi mua nó từ một người đàn bà dưới chợ phiên. Tôi không quên giây phút mình đã đứng rất lâu nhìn người đàn bà ấy. Sau này tôi vẫn không hiểu sao tôi lại quyết định mua con Tễnh vào lúc đó, khi tất cả mọi người đi qua đều không đoái hoài gì đến nó. Có thể vì người đàn bà có khuôn mặt khổ hạnh ngồi nhẫn nại bên mỏm đá nơi cuối chợ. Hay vì con dê xấu xí, bé nhỏ tội nghiệp nằm trong chiếc gùi đã làm tôi động lòng trắc ẩn. Khi tôi đưa tiền và dắt con dê đi, người đàn bà lau vội những giọt nước mắt đã sớm tan trên khuôn mặt sạm đen rồi hướng ánh mắt nhìn theo. Có lẽ với bà đó không phải là một con dê, dù nó có bị khuyết tật đi chăng nữa. Tôi đặt tên nó là Tễnh, có lẽ vì biết thân phận mình nên nó thường chậm rãi đi sau đàn, chậm rãi ăn miệt mài và ngoan ngoãn một cách lạ thường…
Cuối cùng con Tễnh cũng nhiễm căn bệnh lạ ấy. Tôi bất lực đến tìm lão Sình mong tìm được sự giúp đỡ nào đó. Lão nghe chuyện tôi, nheo nheo mắt rồi bảo:
- Theo tao!
Tôi đi theo lão, tắt qua mấy con dốc dài để tới một ngôi nhà nằm sâu trong cánh rừng hóp âm u. Con đường ngập lá hóp rụng vắng lặng đến lạnh người. Tới nơi, lão Sình cất tiếng gọi từ ngoài cổng:
- Hây dố… có nhà không lão Khán ơi!
Có cánh tay thò ra lỗ vách vẫy vẫy. Lão Sình kéo tay tôi đi tiếp.
Mới đến chân thang, tôi đã thấy cảm giác lợm giọng bởi thứ mùi tanh nồng từ trên nhà ào xuống. Chúng tôi bước lên thang, căn nhà tối và lạnh như hang đá, thứ ánh sáng duy nhất phía sau vách lọt vào soi rõ một người nằm ngửa mặt lên trời. Bên cạnh là chiếc chậu nhôm méo mó cùng mấy chai rượu nằm chỏng chơ. Nhìn kĩ bên trong chậu, lều phều nổi lên những đoạn ngắn dài như ruột non hay là măng nứa cũng không rõ. Người nằm mò mẫm vớt từng khúc ruột đưa lên miệng cắn nhai gau gáu. Hai bên mép gã trào ra thứ nước như máu tươi.
- Có gì không? - Người nằm nghiêng đầu nhìn.
- À có việc phiền lão đấy!
- Thử không? Sợ à? Chắc lại nhát chết!
Gã hắt ánh nhìn về phía tôi. Rồi lại ngửa mặt lên mái nhà nhai tiếp.
- Thằng này chết cả đàn dê rồi!
- Khụt… khù… nhà ở đâu?
- Trên sườn núi Vá.
- Hứ hừ…!
- Con dê cái nhà nó sắp đẻ đấy!
- Hay lắm, dê tươi rất được… khé… khé…!
Tôi đã nôn đến ba lần trên đường trở về mỗi lần nghĩ về gã đàn ông quái dị trong căn nhà tối ấy. Gã là lão Khán, kẻ chỉ có thú vui duy nhất trên đời là tìm nhau thai và thú non mới sinh về ăn. Chỉ cần nghe tin ở đâu có trâu, bò, ngựa, dê sắp sinh là lão tới săn tìm bằng được. Lão đợi con vật vừa sinh xong, sẽ cắt lấy đoạn nhau thai còn nóng hổi, bầy nhầy máu tươi đem về. Thả vào chiếc chậu nhôm đựng đầy thứ nước xanh đỏ bí ẩn như món gia vị cho món ăn của lão thêm đậm vị. Cả những con thú mới sinh chết lót ổ lão cũng chẳng từ. Có người thấy lão nướng cả thảy chín con chó con mới nhú lông. Đã mấy chục năm lão ăn như thế. Có người khẳng định rằng thứ lão thích nhất là nhau thai của người. Lão ăn sống tất cả.
Nhưng lão Khán là kẻ đã khiến tôi phải chịu ơn lão mà không lí giải nổi. Con Tễnh bắt đầu sùi bọt mép trắng vì nhiễm bệnh thì lão Khán đến. Lão nhìn con dê hồi lâu, rồi cắm ba cây hương lên mỏm đá phía sau chuồng. Đâu đó mới rót rượu lầm rầm khấn vái, nhìn bộ dạng thì lão là tay thầy cúng có nghề. Có lẽ vì thế mà lão Sình đưa tôi tới tìm lão. Lễ cúng chẳng có gì ngoài một miếng thịt lợn mỡ rải trên lá chuối, một bát cơm trắng và ba chén rượu. Lão bảo dê mày trúng ma ‘‘Slương’’, phải cúng thịt mỡ, càng mỡ càng tốt loại ma ấy rất thích thịt mỡ. Tôi vốn không tin vào ma quỷ, nghe lão giải thích thì trộm cười trong dạ nhưng cũng miễn cưỡng làm theo vì chẳng còn cách nào khác. Nhưng điều kì lạ đã tới, lão dứt lời cúng, rồi ngậm rượu phun vào mình con Tễnh. Tức thì nó đứng dậy, khoan thai đi về phía lều cỏ. Đến tối, con Tễnh khỏi bệnh hẳn, nó lại nhanh nhẹn như chưa có gì xảy ra. Tôi đã chứng kiến điều kì lạ ấy từ đầu mà không tin nổi vào mắt mình. Tôi không tin gã đàn ông dị hợm ấy lại có thể làm được thứ mà bao năm đèn sách của tôi đã chịu đầu hàng. Lão trở thành một lão phù thuỷ có quyền năng trước mắt tôi.
- Tao sẽ lấy công bằng bộ thịt tươi khi nó đẻ nhé… khe… khé…!
6.
Tôi quyết định sang bên kia con suối cạn vào một ngày đầu đông. Gió heo may khe khẽ trên những ngọn cây lúp xúp hai bên bờ. Từng búp lau đầu mùa trắng phau trổ lên nền trời xanh thẫm. Tiếng chim chao chác phía rừng già càng làm không gian như thêm hoang vắng mênh mông. Hình ảnh người đàn bà tắm suối dưới trăng và lời xúi dọa của lão Sình càng làm lớn dần sự tò mò trong tôi, cùng với giấc mơ đêm nào. Tôi muốn nhìn rõ dung nhan nàng ta một lần.
Nhà ấy là của mẹ con Pả mù. Cái tên Pả mù ấy do người núi Vá gọi mãi thành tên. Không ai rõ người đàn bà ấy tên thật là gì. Họ chỉ biết Pả mù là người biết nấu nồi rượu ngon nhất ở khắp đất này. Đàn ông núi Vá say rượu, rồi nghiện rượu của Pả mù từ bao giờ không ai hay. Người ta bảo nếu ai đã uống rượu mẹ con Pả mù nấu thì sẽ không uống được, say được nồi rượu nhà khác nấu. Những Ty rượu trên khắp Pú Giàng vì thế thay nhau gác nồi. Đàn bà Pú Giàng dưới chân núi Vá bỗng đem lòng ghen ghét đố kị với mẹ con Pả mù. Có lẽ họ sợ những gã đàn ông của mình mê rượu hơn mê vợ. Thích uống rượu hơn thích vác cuốc ra đồng, lên nương. Đàn bà ở đây đơn giản nhưng xa xôi là thế…
Tôi men theo con đường mòn đầy xác lá khô về phía bên kia cánh rừng. Sau vài khúc cua quanh co. Tôi bỗng bất ngờ vì khung cảnh phía trước mặt. Một ngôi nhà sàn cũ nằm lấp ló sau vườn hồng đang vào mùa trút lá. Những trái hồng chín đỏ, vàng trĩu trịt trên những thân cành gầy guộc. Một bức tranh màu trầm được chấm phá bởi những sắc màu khiến người nhìn phải lặng thinh. Không ai nghĩ nơi này lại có những cây hồng cao lớn và sai quả đến thế. Những cây hồng có lẽ đã sống ở nơi này từ lâu. Bàn tay người trồng cũng thật khéo léo biết chừng nào.
Tôi đánh bạo bước tới căn nhà nằm giữa khu vườn. Cánh cửa khép hờ bị gió thổi bung ra những tiếng kẽo kẹt kéo dài. Mùi rượu ngô thơm nồng bay ra theo bóng khói ngất ngư trôi lên trời. Tôi cố giữ cho chân mình bước thật chậm, nhưng đã có tiếng nói từ phía trong nhà vọng ra:
- Cậu là người mới đến nơi này phải không? Tôi nghe tiếng dê kêu bên kia suối!
Tiếng người ngay sau cánh cửa khép hờ hắt ra. Tôi mạnh dạn đẩy cửa bước vào. Một người đàn bà ngồi cạnh căn bếp lò đang đỏ lửa. Ánh sáng xuyên qua những tấm liếp nứa hắt lên khuôn mặt một bà với đôi mắt trũng sâu chỉ còn con ngươi trắng dã. Mái tóc đã bạc xoã trên vai áo chàm tối màu. Khuôn mặt của bà lão đang ngửa lên hướng về phía người đang tới.
- Vâng! Cháu là người mới đến nơi này chăn dê ạ!
- Cậu ngồi xuống chơi, đừng sợ! Mắt tôi thế này đã gần ba chục năm.
Tôi miễn cưỡng ngồi xuống trước mặt bà. Ở vị trí này tôi mới đủ thời gian để nhìn kĩ người ngồi trước mặt.
- Năm nay cậu bao nhiêu tuổi? Nghe bước chân và hơi thở tôi đoán trong lòng cậu có nhiều phiền muộn lắm.
- Cháu muốn thay đổi cuộc đời ở nơi này…
- Thật là một đứa trẻ gan dạ, nhưng không ai tự sắp đặt cho mình một cuộc đời được cậu ạ.
Sự bí ẩn như một nhà tiên tri từ Pả mù toát ra bỗng cho tôi một niềm tin. Niềm tin rằng, cuộc sống luôn có những nhân duyên và cả những sự ngẫu nhiên. Pả mù đã nói với tôi điều ấy. Và, nhân duyên để tôi đến ngôi nhà cũng có thể coi là một sự ngẫu nhiên đầy ám ảnh. Sự ám ảnh, mơ hồ đầy mâu thuẫn trong câu chuyện mà bà lão đã kể tôi nghe bên nồi rượu ngô hôm ấy. Đến mãi sau này chính tôi cũng lí giải được tại sao khi ấy bà lão lại có thể kể cho tôi nghe về cuộc đời bà, trong một tâm thế nhẹ nhàng đến như thế.
7.
‘‘Quê già ở xa lắm, nơi những bãi bồi chạy dài bên con sông lớn bốn mùa phù sa bồi đắp. Già nhớ những vạt cải rực vàng, những vườn chuối xanh mướt mắt và cả những vườn hồng, ổi, táo trổ hoa dưới nắng vàng. Đêm đêm tiếng gõ mạn thuyền lốc cốc của cánh làng chài theo con nước. Nhà già trồng nhiều hồng lắm, những cây hồng quả có từ thời cụ nội mang giống từ đâu đó mãi vùng biên giới trở về. Già lớn lên dưới bóng những cây hồng ấy. Năm già mười chín tuổi, cũng vào cuối thu như bây giờ, một ngày có chiếc thuyền của người thương lái mua hoa quả từ đâu đến neo vào gần nhà. Người đàn ông trên thuyền bước lên nhà già xin mua lại những trái hồng đang bắt đầu vào vụ trên cây. Già nhớ đó là lần đầu tiên già gặp người đàn ông ấy, chính là cha của con Sú bây giờ…’’
Có tiếng động phía bên ngoài. Tôi ngoái đầu nhìn, một người phụ nữ vừa bước vào nhà. Tôi không dám nghĩ người đàn bà lam lũ, vai áo đẫm mồ hôi kia sẽ là nàng tiên tôi thấy dưới trăng hôm nào. Người đàn bà còn rất trẻ, có lẽ chỉ hơn tuổi tôi chút ít. Bước vào nhà thấy người lạ, chị hơi sững sờ rồi ra ý chào bằng ánh mắt.
- Nó là cái Sú, con gái của già. Nó bị câm từ khi mới sinh ra cậu ạ.
Tôi ái ngại nhìn theo chị Sú. Chị ngồi tựa lưng vào vách, lặng lẽ đưa ánh mắt về phía bếp lửa. Trong lòng tôi chợt dấy lên một niềm thương cảm cho số phận hai mẹ con họ. Họ là những chiến binh trên chính cuộc đời họ. Còn tôi, một thằng trai khoẻ mạnh, mà biết bao lần tôi định buông xuôi cho số phận.
"Sau gặp đầu tiên ấy, những chuyến hàng qua sông sau này ông ấy đều ghé lại nhà già. Thứ tình cảm yêu đương đã nảy mầm và đơm hoa từ bao giờ không hay. Già mang thai cái Sú khi vừa bước sang tuổi hai mươi. Cậu có biết không? Tuổi trẻ là những chuỗi sai lầm. Sự trả giá cho những sai lầm ấy có khi phải bù đắp bằng cả cuộc đời buồn tủi sau này. Sai lầm của già chính là tin vào một gã đàn ông khốn nạn. Hắn biết già mang thai thì năm lần bảy lượt đòi bỏ đứa bé trong bụng. Hắn viện nhiều lí do để thực hiện cho bằng được điều đó. Nhưng già chấp nhận mang nỗi tủi nhục một đời chứ không chịu bỏ đứa bé. Một ngày, hắn đưa già lên con thuyền lênh đênh trên sông. Khi đi với hắn, già chẳng mang theo thứ gì ngoài nắm hạt giống cây hồng trước nhà. Hắn giả vờ chấp nhận mọi thứ và hứa sẽ làm đám cưới vào ngày gần nhất. Hôm ấy già đã ăn cơm với gã, không ngờ trong bát canh mà gã nói là để dưỡng thai lại có độc. Hắn muốn giết chết hai mẹ con già để yên bề sống với người vợ mà hắn vẫn giấu. Cơn đau ập đến, già cứ nghĩ mình đã chết khi hắn ném già lên bờ rồi lên thuyền rời đi mãi mãi. Nhưng hắn không ngờ rằng ông trời vốn có đức hiếu sinh. Già không chết, nhưng đôi mắt vì trúng độc hay vì nước mắt đau khổ mà cứ mờ dần rồi mất ánh sáng hẳn. Đứa bé sinh ra cũng không nói được thủ đoạn cầm thú từ trong bào thai của chính cha nó. Già đau đớn bế con nay đây mai đó… Già sẽ trồng lại vườn hồng ở nơi nào đó mà già sẽ gắn bó. Giờ cậu thấy vườn hồng của già đấy, nó đẹp như chính vườn hồng của già ở quê đấy. Đời già coi như thế là xong. Nhưng còn con gái già, đứa con gái tội nghiệp của già, thân đàn bà một mình ở nơi này như trứng đặt trên đầu mũi dao. Mong manh biết mấy…"
8.
Tôi thường sang bên kia suối vào những khi rảnh rỗi sau này. Mỗi lần đến chơi mới đến con đường phía trước nhà ngang qua vườn hồng thì Pả mù đã đoán được người đang đến. Chị Sú vẫn đêm đêm ra tắm suối và nằm hát trên đá vào những đêm trăng sáng. Tôi không còn những giấc mơ xa xôi và kì lạ. Mỗi lần gặp tôi, chị Sú chỉ lặng lẽ đứng từ xa, rồi nhoẻn cười tựa lưng vào vách nghe hai người nói chuyện. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, liệu có nàng tiên nào đó đội lốt người đàn bà khổ hạnh, xấu xí kia hay không. Mà chỉ những đêm trăng sáng, nàng tiên ấy mới thoát khỏi hình hài của chị để biến thành một người khác. Khi ấy, chị có phải là chị hay không bỗng thật mơ hồ trong tôi.
Bẵng đi một thời gian tôi không sang bên kia con suối. Đàn dê gây dựng lại khiến tôi bận hơn rất nhiều. Tôi đã bán những con dê đầu tiên của mình như mong ước. Sự ham mê với đồng tiền đã kéo tôi lao đi. Một ngày tôi chợt nhận ra vào những tuần trăng sáng không còn nghe tiếng khua nước dưới con suối phía trước nhà. Dường như đã có chuyện gì đó xảy ra. Tôi lại sang bên kia con suối một lần nữa. Không giống như những lần tôi đến Pả mù đều lên tiếng chào trước khi tôi bước lên nhà. Khu vườn hồng ủ rũ đầy lá khô rụng. Khói bếp im lìm không còn toả ra mùi rượu ngô như thường khi tôi tới. Vội vã đẩy cửa bước vào, trên chiếc giường giữa căn nhà. Trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn hắt lại. Pả mù nằm phủ chăn ngang ngực thoi thóp thở. Phía đầu giường chị Sú đang ngồi ngả người vào vách mệt mỏi. Lạ quá! Hình như chị đã có mang? Tại sao chứ? Kẻ nào? Tôi lại gần mà trong lòng hoang mang cực độ:
- Pả mù ơi, già sao thế?
- Trong hơi thở đứt quãng, Pả mù lần tìm tay tôi khó nhọc:
- Cuối cùng cậu cũng đến, nhờ cậu… Sú… Sú… nhé…!
Tôi nhìn vào đôi mắt trũng sâu chứa đầy nước mắt như hai giếng sâu thăm thẳm đựng một đời khổ đau. Tôi không thể cầm lòng khi bàn tay lạnh lẽo của bà lỏng dần trong tay tôi. Pả mù chết vào một ngày giữa đông.
9.
Chị Sú bỗng phát điên khi nấm mộ Pả mù vừa đắp xong giữa vườn hồng. Chị vừa hú hét, vừa chạy lên núi vá. Không ai ngăn được bước chân chị lại. Người ta bảo chị không thể chịu nổi cú sốc này. Chỉ thương đứa bé trong bụng chị. Không rõ khi ra đời nó có giống chị hay không?
Một thời gian sau vào buổi sáng người ta thấy vết máu loang đầy bên bờ suối. Nhưng không ai tìm thấy dấu vết gì của con thú nào đó bị thương. Còn tôi cứ hoang mang nghĩ về chị Sú. Đến đêm, tiếng khua nước lại vang lên xa vắng. Tôi vội vã tìm đến, dưới ánh trăng non. Có người xoã tóc như một bóng ma, đang ngụp lặn dưới lòng suối. Người ấy vớt từng viên đá dưới suối lên, ôm ấp vào lòng rồi nựng như một đứa trẻ. Những viên đá bỗng rực sáng như mặt trăng trên trời đêm. Những mặt trăng đủ hình hài trong vòng tay người mẹ. Đâu đó lại xếp lên bờ thành từng đống cao chất ngất. Tôi nhận ra đó chính là chị Sú. Nhìn chị tôi đoán chị đã sinh đứa bé ra đời. Nhưng bây giờ nó ở đâu? Tôi cất tiếng gọi, thì ngay lập tức chị nhảy lên bờ rồi mất hút vào rừng cây trong bóng tối. Rồi đến đêm chị trở lại, vẫn những động tác như trong cơn mê ngủ. Tôi chẳng rõ sau mỗi đêm dài, những đứa "con đá" được chị bế từ lòng suối lên trên bờ nhiều bao nhiêu cho kể.
Rồi một ngày tôi không còn thấy chị trở lại. Người núi Vá không ai biết chị còn sống hay đã chết. Đứa bé còn trên đời hay không chẳng ai rõ.
*
Cho đến bây giờ tôi vẫn không tin mình có thể gặp lại chị Sú ở nơi này. Chẳng rõ chị đang ở đâu. Suốt những năm qua đã chị đã sống như thế nào. Cuộc đời cay nghiệt đã đè nặng lên vai người đàn bà ấy. Phải chăng chị đang chơi trò trốn tìm với cuộc đời này.
Tôi chợt nhớ mùa thu năm ngoái mình trở lại núi Vá, Trong vườn hồng xơ xác lá. Bên cạnh nấm mộ của Pả mù, bỗng nổi lên một nấm đất đắp bằng những viên sỏi nhẵn nhụi từ lòng suối. Những trái hồng chín đỏ rụng đầy trên lá khô. Tôi không biết ai đắp nấm đất ấy vào khi nào. Tôi nhìn sang bên bên kia con suối, hình như lão Khán đang ngồi nhìn sang khu vườn cũ.
Tôi một mình lang thang ra bờ sông, bóng tối loang dần trên những mái nhà. Nhỡ đâu tôi sẽ lại gặp chị ở đâu đó đang vớt trăng đêm.