Nhà thơ Trúc Chi sinh ngày 3/12/1933 tại tỉnh Phú Yên. Ông nhập ngũ từ năm 1950, từng công tác ở các đoàn văn công quân đội; giảng dạy văn học tại các trường Học sinh miền Nam, Phổ thông Công nghiệp ở Hải Phòng. Trúc Chi là học viên khoá 3 (1968-1969) Trường viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1975, ông về Nam giảng dạy ngữ văn tại Trường Cao đẳng Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi về hưu TP.HCM. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Tp. Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam. |
Trong tâm khảm tôi, nhà thơ Trúc Chi là một con người hiền hậu, bộc trực và giàu tâm huyết với công việc, cho dù là trên bục giảng hay với trang báo trang văn. Ông cũng là người nặng lòng với quê hương Phú Yên, nơi ông sinh ra và trưởng thành trước khi phiêu bạt từ Bắc chí Nam.
Những ngày đầu năm mới Dương lịch 2015, sau khi vào bệnh viện thăm nhà thơ Trúc Chi, hình ảnh ông cứ mãi ám ảnh tôi, cả trong những câu chuyện với bạn bè về những bậc lão thành tài hoa lần lượt ra đi. Vào tối 27/1/2015, tôi gọi điện cho con trai duy nhất của ông là nhà báo Tùng Chi, được biết ông yếu lắm rồi, đến sáng hôm sau tôi nhận được tin ông đã trút hơi thở cuối cùng. Dẫu không bất ngờ nhưng tôi cứ mãi thẫn thờ trước một bậc lão thành đồng hương mà mình quí mến. Và những câu thơ gắn liền tên những tác phẩm của ông đã tự nhiên hiện lên trong tôi:
Hồn thi sĩ bay về miền sóng trắng
Tiếng kêu chim gõ kiến mãi còn đau
Hơn tám mươi xuân vẫn câu chuyện từ lớp học
Cát bụi dặm đường con voi già thấu nỗi bể dâu
|
Nhà thơ Trúc Chi tên đầy đủ là Nguyễn Trúc Chi, trong mọi giấy tờ đề ngày sinh 3/12/1935, nhưng thực ra ông chào đời năm 1933, quê quán ở xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sớm tham gia du kích, bộ đội địa phương chống Pháp từ năm 1950, sau đó nhờ có năng khiếu nghệ thuật ông chuyển sang công tác ở các đoàn văn công Quân khu 5, Sư đoàn 305, 324. Tập kết ra Bắc, ông học tập và giảng dạy văn học tại các trường Học sinh miền Nam, Phổ thông Công nghiệp ở Hải Phòng. Đồng thời, ông cũng sáng tác kịch bản sân khấu, in thơ trên báo chí, được tuyển lên Hà Nội học khoá 3 (1968-1969) Trường viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, ông về Nam giảng dạy văn học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (nay là Đại học Sài Gòn) cho đến khi về hưu.
Vừa giảng dạy vừa làm thơ, viết văn, viết báo, Trúc Chi là cây bút trường lực, năng động, tâm huyết và đầy trách nhiệm. Thời kỳ nào ông cũng có tác phẩm được xuất bản, với nhiều thể loại, tiêu biểu về thơ như: Cánh chim biển (1967), Dư âm sóng (1980), Chú dế đàn (1980), Thành phố hoa mặt trời (trường ca, 1986), Miền sóng trắng tôi yêu (1987); về truyện ngắn có Arú và con voi già (1987), Thị trấn đêm màu trắng (1989),Câu chuyện từ lớp học này (1989), Con trai người săn cá mập (1997); truyện dài có Huyền thoại biển (2000); bút ký và phóng sự: Cuộc đời như một truyền thuyết (1992); Vị giám đốc hát rong (2001), Tiếng kêu của con chim gõ kiến(1989); Dăm đường cát bụi (1997). Ông còn có một tập tiểu luận phê bình Ba mươi năm một nền thơ(1999) và 2 kịch bản sân khấu viết từ cuối thập niên 1950: Bài ca giữ đất, Cái nấm độc.
Nhà thơ Trúc Chi vốn sinh ra ở thị xã, nhưng cả cuộc đời ông gắn liền với biển. Từ lúc mới 5 tuổi, ông đã theo gia đình tản cư về vùng biển, cả thời thơ ấu lăn lộn với biển, đến khi lớn lên tham gia kháng chiến cũng hoạt động ở miền biển phía bắc tỉnh Phú Yên. Về sau tập kết ra Bắc, số phận cũng đưa ông về với thành phố biển Hải Phòng. Vì lẽ đó, các tác phẩm của ông phần lớn lấy nguồn cảm hứng từ biển, đặc biệt là thơ, với những Cánh chim biển, Dư âm sóng, Miền sóng trắng tôi yêu…
“Cửa biển cũng yêu như em anh
Khi hình rẻ quạt gọi mùa chim
Biển mơ màng ngủ, lim dim sóng
Nỗi nhớ mùa đông tím lục bình”
(Cửa biển tình yêu)
Những năm tháng cuối đời, tình yêu biển đảo vẫn dào dạt trong ông. Năm 2012, ông vào nằm ở Bệnh viện Thống Nhất, trong một đêm mưa gió tình cờ nghe một cựu chiến binh kể những câu chuyện gian nguy canh giữ chủ quyền quần đảo Trường Sa, ông xúc động liên tưởng, hoá thân và viết nên bài thơ hayTình ca sau đêm bão mà sau đó được nhạc sĩ Quỳnh Hợp phổ nhạc, trong ấy có đoạn:
“Vẫn chiến hào bên vườn rau
Cây vẫn mầm, trái vẫn nụ
Cây phong ba bên công sự
Gió vào một trời rạng đông
Ta tìm tiếng hát em
Tiếng hát bay trong bão
Ơi một Trường Sa đảo
Tình yêu từ nghìn năm”
Gần đây, có dịp đi công tác Hà Nội và đến thăm Hội Nhà văn Việt Nam, tôi tình cờ thấy có vài thẻ hội viên của các nhà văn ở phía Nam như Trúc Chi, Ngô Phan Lưu còn nằm ở đây, nên đóng lệ phí và lấy giùm thẻ mang về. Mấy lần tôi gọi điện cho nhà thơ Trúc Chi để đến thăm và đưa thẻ cho ông nhưng rồi vì lý do khác nhau không gặp được. Đến khi nghe tin ông bị bệnh nặng, tôi vào thăm và mang thẻ cho ông. Nhà thơ run run cầm tấm thẻ hội viên, săm soi rất kỹ và nhẹ nhàng đút vào túi áo ngực. Nhìn ánh mắt tươi vui của ông, tôi cảm nhận nghề văn với ông có ý nghĩa xiết bao. Tấm thẻ hội viên chỉ là vật vô tri nhưng nó là một bảo chứng, một kỷ vật cho đời cầm bút. Ông nắm tay tôi và nói trong khó khăn nhiều điều về nghề nghiệp, gửi lời thăm tất cả các bạn văn mà ông quen biết. Ông cũng nhắc nhiều về quê hương Phú Yên, đặc biệt là tập thơ Miền sóng trắng tôi yêu mà ông rất tâm huyết do NXB Tổng hợp Phú Khánh ấn hành từ năm 1987.
Nhà thơ Trúc Chi là người rất nặng tình với quê hương. Không phải bây giờ mà mỗi lần gặp gỡ nhau trước đây ông đều tâm sự với tôi những tình yêu, suy tư về nơi “chôn nhau cắt rốn”. Ông hay nói đến bài thơ Đèo Cả của nhà thơ Hữu Loan viết từ đầu năm 1946, một trong những bài thơ hay nhất về Phú Yên. Ông cũng từng bình luận trong một bài viết: “Đến đèo Cả, cái chính nhà thơ không chỉ để thấy mà còn để nghe hồn người, nghe hồn đá núi, nghe hồn kháng chiến. Bài thơ Đèo Cả được dựng lên bằng hồn của nét trầm, bằng hùng của điệu thơ: Đèo Cả/ Đèo Cả/ Núi cao ngất/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương/ Dặm về heo hút/ Đá bia mù sương”.
Nói đến Trúc Chi không thể quên tập phóng sự Tiếng kêu của con chim gõ kiến mà ông in chung với nhà báo Nguyễn Công Thắng vào năm 1989, gây sóng gió trong dư luận về những chuyện không hay ở Phú Yên. Tôi biết có nhiều quan chức bấy giờ ở tỉnh nhà rất bất bình, căm giận ông về tập phóng sự này vốn được đăng liên hoàn trên báo chí, đến nỗi thời gian đó mẹ ông mất, dù ở Nha Trang kề bên nhưng ông không về được Phú Yên. Đó là nỗi đau mà suốt đời ông dằn vặt. Có thể ông đúng và cũng có thể có những điều ông chưa đúng do cách nhìn chủ quan của một nhà báo. Tuy nhiên, có điều tôi tin những gì ông viết là xuất phát từ tấm lòng của ông đối với quê hương cũng như trước những thực tế bất công mà người dân thấp cổ bé miệng phải gánh chịu, trước cái ác lộng hành coi thường pháp luật, đạo lý mà một cây bút có trách nhiệm như ông không thể không lên tiếng.
Có thể nói, Trúc Chi là một cây bút tâm huyết, năng động, bản lĩnh, sắc sảo và cũng rất tinh tế. Sự nghiệp sáng tác văn học phong phú và làm báo sôi động của ông sẽ mãi còn lại, là tấm gương cho những người cầm bút đi sau.
Tiếp sau những nhà văn cùng thế hệ như Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Lưu Trùng Dương, Phạm Ngọc Cảnh,… “Cánh chim biển” Trúc Chi cũng đã dừng dặm đường cát bụi để “bay” về miền sóng trắng vô định mà ông yêu thương, mà ông muốn về. Hai người con nối nghiệp ông là Khánh Chi và Tùng Chi sẽ tiếp tục con đường đầy gian nan thử thách. Dù đi đâu về đâu thì với ông, một con người hồn nhiên, bộc trực và không ít gai góc, quyết liệt vẫn canh cánh nỗi đau nhân tình. Một nỗi đau thi sĩ khôn nguôi kiếm tìm lý giải về cuộc đời như những câu thơ hay rút ruột ông viết, cũng là nỗi ám ảnh triền miên về biển:
“Chưa tìm được kim dưới đáy biển
Nỗi đau cứ dai dẳng lặng chìm
Nỗi buồn cứ cơn mê tê điếng
Kim cứ từ biển nhói lên tim”
(Kim đáy biển)
Văn nghệ số 6/2015