Diễn đàn lý luận

Nhà văn Đỗ Nhật Minh và những hồi ức cũ xưa

Đinh Tiến Hải
Chân dung văn học 11:10 | 13/10/2025
Baovannghe.vn - Các tác phẩm chính của Đỗ Nhật Minh chủ yếu viết về số phận con người; đưa con người trở về với khuôn tấc đời thường, hoàn cảnh sống cụ thể, giúp họ nhận ra những giá trị chuẩn mực của gia đình, giá trị thực của đời sống hiện tại.
aa

Nhân vật của ông dù chịu nhiều thiệt thòi, đắng cay, mất mát nhưng đều thể hiện lòng vị tha, đức hy sinh thầm lặng trong bản năng vốn có của họ.

Nhà văn Đỗ Nhật Minh và những hồi ức cũ xưa
Nhà văn Đỗ Nhật Minh

Đỗ Nhật Minh là người khiêm nhường, giản dị và hài hước. Lần nào gặp tôi, ông cũng hỏi “Có viết được cái gì mới không?” Lúc cao hứng ông vỗ vai hài hước đọc mấy câu thơ Mừng lão Nhật Minh được nghỉ ngơi/ văn chương như thế đã đủ rồi/ nếu có mệnh gì xin nói rõ/ chỉ nhận phong bì có thế thôi. Thực tế, mặc dù năm nay đã ngoài tám mươi tuổi nhưng ông vẫn ham đọc, ham viết, vẫn miệt mài với từng con chữ. Tôi vẫn hay đùa gọi ông là ngọn đèn không tắt sáng. Bởi ở cái tuổi xưa nay hiếm như ông, nhiều người đã ngừng viết và vui thú cháu con. Nhưng với ông, viết cũng là một cách rèn luyện tư duy, mở rộng tư duy và cải thiện được sự minh mẫn của trí tuệ thông qua ý tưởng và sự sáng tạo. Bằng chứng là gần đây ông xuất bản cuốn Trang giấy và ngòi bút, ông khiêm nhường gọi các bài viết của mình là tạp văn. Ông là người đọc kỹ các tác phẩm của bạn viết, nên mỗi bài viết của ông nói lên được cái riêng của từng người, đem đến sự thú vị từ góc nhìn riêng về tác phẩm của họ.

Không nhớ tôi đến thăm nhà riêng của Đỗ Nhật Minh vào năm nào. Chỉ nhớ khi ấy tôi gặp nhà thơ Nguyễn Thanh Kim ở Hội VHNT tỉnh, Nguyễn Thanh Kim bảo: “Mày chở tao đến thăm ông bạn già Đỗ Nhật Minh!” Căn phòng rộng chừng gần ba chục mét vuông chủ yếu chứa sách. Giường ngủ cũng là nơi ông tiếp bạn văn chương đàm đạo trà, thuốc. Cạnh đó là một cái bàn viết sơ sài và chục trang bản thảo viết tay. Tôi mạo muội hỏi ông: “Sao bác không viết bằng máy tính cho nhanh?”. Ông bảo: “Tao cập nhật công nghệ thông tin kém lắm, với lại viết tay cho mình nhiều cảm xúc hơn gõ máy. Bản thảo tao gom lại rồi thuê người đánh vi tính ngay đầu ngõ.” Vài lần tôi gặp ông thong thả đạp xe đến tòa soạn báo, chợt nghĩ: ông đích thị là “người muôn năm cũ” thật đáng quý còn sót lại giữa thời đại bùng nổ thông tin; ông đích thị là một nhà văn, một ngọn đèn cháy đến hao dầu, cạn bấc, cháy đến hơi thở cuối cùng của nghiệp cầm bút viết văn.

Nhà văn Đỗ Nhật Minh sinh năm 1944, quê quán Nam Định. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh.

Ông xuất bản 17 đầu sách, 4 tiểu thuyết và 13 tập truyện ngắn, trong đó phải kể đến các tiểu thuyết Giã từ đêm quan họ, Bóng đêm và con chó, Thờ ơ và tội ác và các tập truyện ngắn Cái lồng sắt, Quán trần gian…

Nhiều lần đến nhà Đỗ Nhật Minh chơi, được ông mời lên đàm đạo văn chương và nghe ông kể chuyện. Tôi mạo muội hỏi ông: “Nghe nói ông là cháu của nhà văn Nguyên Hồng?” Ông bảo: “Về phía họ hàng, nhà văn Nguyên Hồng là chú tôi. Gia đình tôi gốc gác ở Xuân Trường - Nam Định, nhưng vì chiến tranh, đói kém, bố tôi lại đi bộ đội. Năm 1949, mẹ tôi đành đưa các con về ở mấy tháng tại ấp Cầu Đen, nơi tản cư của nhà văn Nguyên Hồng từ năm 1947. Hòa bình lập lại năm 1954 gia đình tôi về thị xã Bắc Ninh. Nhiều lần từ Hà Nội về ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng hay về nhà tôi để nghỉ. Ngày còn nhỏ tôi là người nhút nhát, chẳng bao giờ dám khoe sự viết lách của mình với ông, mãi đến năm 1971, tôi đi dự Hội nghị các cây bút trẻ toàn quốc tại Hà Nội thì gặp ông tại hành lang Hội Nhà văn. Ông ngạc nhiên hỏi: Cháu cũng họp ở đây à? Rồi ông bảo: Khổ, viết lách làm gì, viết văn khổ lắm cháu ạ. Đến bây giờ, ngẫm lại lời ông nói tôi mới thật thấm thía.” Nói rồi Đỗ Nhật Minh ngồi trầm ngâm hút thuốc, ánh nắng buổi chiều tràn vào cửa sổ căn phòng chiếu từng tia sáng lấp lánh lên khuôn mặt ông. Tôi đột ngột hỏi: “Bác có thể kể cho cháu nghe tại sao người ta lại gọi là ấp Cầu Đen và Đồi Cháy?” Ông bảo: “Đồi Cháy là tên gọi dân dã, người dân ở đây ban đầu gọi là ấp Ký Nhàn. Chả là ông Nhàn làm thư ký cho chủ đồn điền người Pháp. Ông chủ đồn cho phép ông Nhàn người Nhã Nam vào chiêu dân, lập ấp và thu thuế cho mình.”

Đồi Cháy ngày đó rặt những cây dại sim, mua, chổi xuể, giàng giàng…; đất đồi đỏ quạch toàn sỏi son trông chẳng khác gì màu lửa, bởi thế mới gọi là Đồi Cháy. Ngày đó chỉ có nhà của vợ chồng ông Ký Nhàn, các tá điền và dân làm thuê, làm mướn đến ở, mãi đến năm 1946, đầu năm 1947 mới có thêm các văn nghệ sĩ như Nguyên Hồng, Đỗ Nhuận, Ngô Tất Tố, Kim Lân đến ở. Đồi Cháy nằm giữa hai con suối mang hai cái tên Cầu Trắng và Cầu Đen. Người dân phân biệt Cầu Trắng là cây cầu làm bằng xi măng. Cầu Đen là vì hồi Pháp thuộc có cây cầu gỗ quét bằng hắc ín qua đường trước ấp. Cả hai cây cầu đều thuộc đất của xã Quang Tiến huyện Tân Yên. Đã từ lâu, Đồi Cháy - ấp Cầu Đen được gọi là Đồi văn hóa kháng chiến. Điều này được khẳng định trong lịch sử của Hội Nhà văn Việt Nam. Đã có rất nhiều văn nghệ sĩ trong và ngoài nước, nhiều tổ chức đoàn thể quốc gia đến khu di tích này.

Đỗ Nhật Minh bảo: “Dạo này sức khỏe tôi giảm sút sau lần đi viện về. Người già thường hay hồi tưởng. Tôi nhớ, ngày xưa bố tôi và nhà văn Nguyên Hồng không hợp nhau. Bố tôi là người chải chuốt, ngăn nắp, cẩn thận. Nguyên Hồng trái lại ăn mặc tuềnh toàng, thích sự giản dị, tự nhiên. Nhà tôi ngày ấy nghèo lắm. Mẹ tôi hay than thở về nhà cửa chật chội, dột nát, Nguyên Hồng bảo, được thế này là tốt lắm rồi chị ạ. Ông quý mẹ tôi vì bà lam lũ, nhọc nhằn. Ông cũng dặn dò tôi, cái nghề văn chương nó nghiệt ngã lắm, nghề khác không tài cố gắng thì vẫn làm được chứ văn chương không có tài, có năng khiếu, không chịu đọc thì khó lắm, suốt đời chỉ hão huyền, làm khổ vợ con. Rồi ông bảo tôi, nếu muốn viết thì cứ viết từ gan ruột mình, từ con tim, khối óc của mình, viết những gì gần gũi, đời thường nhất với mình… Bao lời ông nói tôi vẫn nhớ đến bây giờ. Thuở còn đi học, tôi học trường cấp II, III Hàn Thuyên - Bắc Ninh. Học cùng lớp với tôi là Chu Bá Bình (nhà văn Đỗ Chu). Hồi trẻ, Đỗ Chu đã rất nổi tiếng với nhiều truyện ngắn đặc sắc được đăng tải trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ra trường tôi đi học Cao đẳng Sư phạm Nam Định, rồi làm ông giáo dạy học ở tỉnh Hà Tây. Hết Đường Lâm - Sơn Tây sang huyện Phú Xuyên, rồi tôi chuyển về dạy ở nhiều nơi thuộc huyện Yên Dũng (Bắc Giang). Truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng Trung ương là Tiếng hát ở một làng quan họ trên Văn nghệ Quân đội năm 1978. Sau đó là các truyện khác như Không đề, Thợ lợp nhà trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Truyện vừa đầu tay là Câu chuyện về một đội kịch xuất bản năm 1971, NXB Kim Đồng. Nhờ cuốn sách này mà tôi được đi dự Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần II ở Hà Nội đấy. Lần đó Hà Bắc có tôi, nhà thơ Trần Ninh Hồ, Trần Anh Trang và Nguyễn Phan Hách.”

Đỗ Nhật Minh lục tìm tập bản thảo trong góc tủ viết về nhà văn Nguyên Hồng rồi chậm rãi kể. Theo đó, thuở thiếu thời Nguyên Hồng cũng lam lũ, khổ cực lắm. Cuộc sống tha phương với bao đắng cay, tủi nhục đã khiến Nguyên Hồng gắn bó với những con người chân đất, những con người dưới đáy xã hội. Năm 1958 Nguyên Hồng đưa cả gia đình từ thủ đô trở về ấp Cầu Đen xã Quang Tiến chứ không về thị xã, lấy nơi đó làm quê hương thứ hai của mình. Một nơi xa xôi, hẻo lánh như vậy nhưng có rất nhiều văn nghệ sĩ đến ở hoặc thường xuyên qua lại Đồi Cháy như: Anh Thơ, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Tất Tố, Kim Lân, Đỗ Nhuận, Tú Mỡ… và sau đó là hàng loạt tác phẩm ra đời ở đây. Kim Lân có truyện ngắn Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí. Nguyên Hồng có các ký Ấp Đồi Cháy, Địa ngục và lò lửa, Đất nước yêu dấu, các tiểu thuyết Cửa Biển, Sóng gầm, Núi rừng Yên Thế. Nếu tính từ năm 1938 ra đời Bỉ vỏ đến năm 1982 ra đời Núi rừng Yên Thế viết về cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám thì nhà văn Nguyên Hồng có 44 năm cầm bút, trong đó riêng ở ấp Đồi Cháy là 35 năm. Ông đột ngột ra đi khi còn đang dang dở cuốn tiểu thuyết nhiều tập Núi rừng Yên Thế. Bao dự định lớn lao còn ấp ủ, vậy mà con người cần lao, con người của đất, của núi rừng, của Đồi Cháy đã bay về miền mây trắng. Nhà của ông vẫn còn ở nơi cũ, ấp Đồi Cháy bây giờ đã khang trang hơn rất nhiều, riêng cây khế, giếng nước, chõng tre, tủ sách… dường như vẫn còn bóng dáng ông.

Kể cho tôi nghe xong Đỗ Nhật Minh ngồi lặng theo vòng khói thuốc. Tôi biết, ông đang rất xúc động. Chào ông, tôi ra về, nắng mùa thu tràn lên khóe mắt.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.