Diễn đàn lý luận

Số hóa và mạng hóa, những giới hạn và khả thể của LLPB sau 1975*

Phan Tuấn Anh
Lý luận phê bình 08:00 | 06/10/2025
Baovannghe.vn - Sự trưởng thành và chiếm lĩnh văn đàn của các nhà lý luận phê bình trẻ có lẽ phải tính từ thời điểm những trang mạng web chuyên về nghiên cứu văn học ra đời vào thập niên đầu thế kỷ XXI
aa
“Tuổi trẻ là gì? Một giấc mơ. Tình yêu là gì?/ Nội dung của giấc mơ đó.” (Soren Kierkegaard)

1. Thế hệ phê bình F – những nhà phê bình trong thời đại số hóa

Một thời đại văn chương mới đã bắt đầu phôi thai từ cuối thế kỷ XX và ngày càng trở nên rõ rệt hình hài vào đầu thế kỷ XXI. Thời đại văn chương toàn cầu hóa hay văn chương hậu hiện đại của Việt Nam đầu thế kỷ này chứng kiến sự chung vai, tiếp sức chạy đua của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu. Từ những người nổi danh từ thời kháng chiến, cho đến thế hệ nhà nghiên cứu trưởng thành sau 1975 và đặc biệt là trưởng thành sau Đổi mới (1986). Mỗi thời đại văn học lớn vẫn thường sản sinh ra thế hệ nghiên cứu lí luận phê bình văn học mang đặc thù riêng của những điều kiện sinh quyển văn hóa, chính trị, kinh tế và quan niệm nghệ thuật mà họ sinh sống. Muốn hiểu về thế hệ nhà nghiên cứu trẻ, trưởng thành từ đầu thế kỷ XXI mà tôi gọi là thế hệ f – thế hệ viết bằng máy tính, đăng tải chủ yếu trên mạng mà như cách nói nổi tiếng của nhà thơ Hữu Thỉnh trong Hội nghị nhà văn trẻ lần thứ VIII (năm 2011) năm là “thế hệ viết bằng mười đầu ngón tay”, chúng ta cần hiểu về những điều kiện (conditions) mà họ thuộc về, đó chính là điều kiện hậu hiện đại, ở Việt Nam cụ thể là bối cảnh tin học hóa và mạng hóa. Nhờ tin học hóa/mạng hóa mà ở Việt Nam mặc dù chưa có cơ sở hạ tầng hậu – công nghiệp, hay chủ nghĩa tư bản đa quốc gia như các nước phương Tây , nhưng cảm quan hậu hiện đại (postmodern sensibility) đã hiện hữu một cách khá đầy đủ.

Số hóa và mạng hóa, những giới hạn và khả thể của LLPB sau 1975*
Nhà phê bình Phan Tuấn Anh

Ngược dòng thời gian, theo các tài liệu có được, ta có thể thấy internet bắt đầu được biết đến và xây dựng nền tảng ở Việt Nam vào những năm 1991 – 1992. TS. Mai Liêm Trực đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn này, bởi khi ấy ông đang là Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, có vai trò mở đường từ góc độ quản lý nhà nước. Ngoài ra, cần phải ghi nhận công lao của giáo sư Rob Hurle của Đại học Quốc gia Australia, trên phương diện giới thiệu công nghệ. Năm 1992, email đầu tiên của Việt Nam với tên miền của Australia là [email protected] ra đời và gửi bức thư điện tử đầu tiên ra thế giới. Năm 1994, nhóm nghiên cứu của GS Hurle đã tặng Việt Nam máy tính có kết nối mạng qua modem đầu tiên. Netnam là công ty cung cấp dịch vụ internet đầu tiên ở Việt Nam, với vai trò quan trọng của chủ tịch Hội đồng quản trị Trần Bá Thái. Tháng 11 năm 1997, Netnam cùng VNPT và ba công ty khác trở thành những nhà cung cấp dịch vụ internet (IPS) đầu tiên ở nước ta, đánh dấu cho sự ra đời chính thức của mạng toàn cầu tại Việt Nam. Từ đó, việc sử dụng mạng internet để trao đổi, truy cập thông tin dần trở nên phổ biến trong xã hội, đến mức trở thành nhu cầu thiết yếu và tối thiểu với đời sống hiện đại, nhất là khi smartphone và tablet ra đời. Tính đến tháng 3 năm 2012, theo Tổng cục thống kê, có đến 32,1 triệu người ở Việt Nam sử dụng internet, chiếm 35% dân số .

Nhưng phải đến đầu thế kỷ XXI, nền tảng văn học mạng/máy tính ở Việt Nam – sinh quyển tồn tại của các nhà nghiên cứu thế hệ f mới được khởi sinh qua các trang mạng xã hội. Khoảng năm 2003 – 2004, mạng xã hội mới bắt đầu phổ biến ở nước ta. Lúc này, cộng đồng viết lí luận phê bình thế hệ f cũng bắt đầu trưởng thành trong ngòi bút, sự can dự của họ vào đời sống nước nhà ngày càng rõ nét hơn, mà trước tiên là đối với khu vực văn học mạng (network literature). Tuy nhiên, các trang mạng xã hội nói chung và facebook nói riêng cũng có những hạn chế cố hữu đối với hoạt động nghiên cứu văn học. Do đó, các nhà lí luận phê bình thế hệ f sớm phải tìm ra môi trường mới để công bố các diễn ngôn nghiên cứu của mình một cách hiệu quả, mang tính học thuật nghiêm túc hơn.

Sự trưởng thành và chiếm lĩnh văn đàn của các nhà lý luận phê bình trẻ có lẽ phải tính từ thời điểm những trang mạng web chuyên về nghiên cứu văn học ra đời vào thập niên đầu thế kỷ XXI. Theo Inrasara, trong không khí “hậu đổi mới”, những trang web văn chương từ trong nước đến hải ngoại đã lần lượt xuất hiện, tiêu biểu là tienve.org (2002), evan (2004), vannghesongcuulong.org (2004) – năm 2007 đổi tên thành vanchuongviet.org, damau.org (2006) , lyluanvanhoc.com (2011 đến 2012), phebinhvanhoc.com.vn (2012 đến nay)… Thông qua các trang web chuyên văn chương, mà đặc biệt là chuyên về lý luận phê bình văn học nói trên, những nhà lý luận phê bình thế hệ f mới có được sân chơi và sự chú ý đúng mức từ phía công chúng. Có thể nói, từ nền tảng tin học hóa và mạng hóa này, một thế hệ lý luận phê bình mới đã được ra đời.

Như vậy, trên dưới mười năm qua, văn đàn nước nhà đã/đang chứng kiến sự trưởng thành và chiếm lĩnh văn đàn của thế hệ nghiên cứu văn học mới, trẻ trung đầy nhiệt huyết, dũng cảm dấn thân trong lĩnh vực vốn dĩ vẫn thường dành cho các “cây đa, cây đề”, cũng như những hệ lụy và nguy cơ thường trực mà người viết phải đối mặt. Ngày nay, thật khó hình dung diện mạo đời sống phê bình đương đại nếu thiếu đi những tiểu luận, chuyên luận, công trình của thế hệ f. Nhưng trước tiên, thế hệ f, họ là ai? Nhiều người định danh thế hệ lý luận phê bình mới này theo tuổi, tức 7x, 8x, 9x. Một số người khác như nhà thơ Hữu Thỉnh, gọi tên thế hệ này dựa trên “cách viết đặc thù” của họ, là “thế hệ viết trên mười đầu ngón tay”. Tôi lại muốn chọn cách định danh của Trần Thiện Khanh (xin xem phebinhvanhoc.com.vn) – một người nằm trong thế hệ, rằng đó là thế hệ phê bình f. f hẳn nhiên có nhiều nghĩa, có thể giải thích là fast (nhanh nhạy), fun (vui vẻ – hiểu theo lí thuyết trò chơi), fabulous (phi thường), hay f theo di truyền là nhằm chỉ các thế hệ (f1, f2…), nhưng theo tôi, f trước tiên là facebook. Khi định danh thế hệ phê bình facebook, tức chúng ta đang nói tới nền tảng ngôn ngữ của nó, tức viết trên nền tảng mạng. “Mười đầu ngón tay” chỉ dừng ở cách viết trên máy tính, “f” đi xa hơn bước nữa, viết bằng “ngôn ngữ nhị phân của máy tính” thông qua mạng internet. Lấy facebook làm biểu tượng, dĩ nhiên còn có ý nghĩa sâu xa khác, đó là cách thức kết nối và thể hiện sự quan tâm đặc thù của thế hệ này đối với đời sống văn học.

Theo David Kirkpatrick trong Hiệu ứng facebook và cuộc cách mạng toàn cầu của mạng xã hội [Nxb Thế giới, 2012], sở dĩ facebook được cả nhân loại yêu thích, và trở thành phương tiện chính yếu giúp chúng ta giao tiếp trong thế giới phẳng, là bởi cách thức xác định bạn bè, cũng như khả năng thể hiện sự quan tâm, tán đồng đặc thù của nó. Facebook giúp ta dễ dàng tìm kiếm bạn bè theo nhiều cách, và chúng ta xác minh một cá nhân chủ yếu dựa trên những friend của họ là ai. Ví dụ một ca sĩ, một giáo sư, một cầu thủ sẽ có đa phần bạn bè là những người trong cùng ngành nghề (đồng nghiệp). Tức mối quan hệ xã hội xác nhận bạn là ai, bạn có địa vị gì, giá trị của bạn tùy thuộc vào ai đang là bạn của bạn. Thứ hai, bằng cách lập các nhóm quan tâm, cũng như cách thể hiện sự tán đồng qua các comment, các tag, hoặc nút like ở các status, note, và đặc biệt là các ảnh. Mọi điều bạn quan tâm (like, tag và comment) đều hiện lên trên “tường chung” của mọi người bạn của bạn. Facebook đã thực sự thay đổi cách thức chúng ta chia sẻ, tìm kiếm thông tin, cũng như cách tạo dư luận và định hướng người đọc. Theo nghĩa đó, chúng ta có thể kể ra hàng loạt cây bút nghiên cứu thế hệ f nổi bật như Phạm Văn Ánh, Cao Việt Dũng, Trần Thiện Khanh, Đoàn Ánh Dương, Mai Anh Tuấn, Đoàn Minh Tâm, Nguyễn Mạnh Tiến, Hoàng Thụy Anh, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Thanh Tâm, Phùng Gia Thế, Trần Ngọc Hiếu… Đa số đều sở hữu một tài khoản facebook, một số người có blog riêng nổi tiếng (ví dụ blog của Trần Ngọc Hiếu), hoặc cả một trang web văn chương có tín thế (ví dụ phebinhvanhoc.com.vn của Trần Thiện Khanh). Họ viết và thể hiện tầm ảnh hưởng của mình lên sự viết bắt đầu từ “thế giới mạng”, và sau đó, bao phủ lên “thế giới in”. Trước kia, khoảng đầu thiên niên kỷ này, “thế giới mạng” còn là danh từ miệt thị, khinh khi, nhằm chỉ sự thiếu nghiêm túc, ít tinh thần học thuật, vàng thau lẫn lộn, tức phi hàn lâm và phi chính thống. Nhưng ngày nay, chúng ta lại càng thấm thía những lời tiên tri của J.F.Lyotard trong Hoàn cảnh hậu hiện đại (1979): “Từ đây có thể rút ra một điều dự đoán là tất cả những gì trong tri thức đã có mà không thể dịch ra bằng cách ấy (chu chuyển trên nền tảng mạng – PTA) sẽ bị loại bỏ, và việc định hướng cho các hướng nghiên cứu mới mẻ này sẽ tùy thuộc vào điều kiện là các kết quả cuối cùng có thể dịch được sang ngôn ngữ máy” 1. Thứ ba là khả năng tạo sự kiện trên facebook. Mạng xã hội cho phép bạn tạo một trang sự kiện, mời bạn bè tham dự và bình luận trực tiếp, các thông tin, ảnh, video liên quan đến sự kiện đều dễ dàng được đăng tải lên trang này giúp thu hút người xem một cách hiệu quả.

Ngày nay, một nhà lý luận phê bình “mù chữ số” sẽ dần bị loại ra khỏi “cuộc chơi”, bởi tầm ảnh hưởng và tác động lên đời sống văn học của anh sẽ bị thu hẹp lại theo thời gian. Chúng ta từng thấy sự khốn đốn của các nhà xuất bản, hoặc sự sụp đổ của hệ thống báo chí in truyền thống trên thế giới. Ngay cả những tượng đài báo in như Newsweek, The New York Times… cũng phải tuyên bố ngừng phát hành báo giấy để chuyển sang nền tảng báo mạng, thì sự lên ngôi của nền tảng mạng là điều dễ hiểu. Do đó, một thế hệ được sinh ra, lớn lên, đọc, viết và kết nối lẫn nhau trong nền tảng mạng đương nhiên sẽ dần chiếm lĩnh đời sống văn học nói chung (chứ không đơn thuần là đời sống văn học mạng) nhanh hơn chúng ta tưởng. Họ trước tiên có lợi thế về tìm kiếm và chia sẻ tri thức, khi ngồi ở nhà nhưng có thể kiếm tìm sách trong toàn bộ các thư viện lớn trên quốc tế. Lợi thế đó dẫn đến sự cập nhật lý thuyết phê bình thế giới diễn ra một cách nhanh chóng, vượt khỏi quán tính nặng nề của công tác giới thiệu, kiểm định, dịch thuật, phát hành… của sách in truyền thống. Ta có thể kể đến một vài trường hợp tiêu biểu như Đoàn Ánh Dương với lí thuyết hậu thực dân, Cao Kim Lan với tu từ học, Nguyễn Văn Thuấn, Lê Thị Dương với thuyết liên văn bản, Nguyễn Mạnh Tiến với phân tâm học, Trần Ngọc Hiếu với lí thuyết trò chơi, Phùng Ngọc Kiên với lí thuyết về trường văn học… Chúng ta có thể thấy thế hệ f thường xuyên hứng khởi, đam mê với các hệ lý thuyết mới (ít ra là mới ở nước ta) như: lý thuyết trò chơi, hậu hiện đại, nữ quyền luận, liên văn bản, hậu thực dân, môi trường luận, tân lịch sử, phân tâm học, hiện tượng luận, mỹ học tiếp nhận… Cũng nhờ nền tảng mạng mà sự giao lưu tri thức và chu chuyển lý thuyết trở nên tức thì, bỏ qua giới hạn về không gian và thời gian, tạo điều kiện cho những nhà lý luận phê bình thế hệ f dễ dàng tạo ảnh hưởng lên nhau. Tôi xem xét quá trình “tạo ảnh hưởng” này từ hai góc độ. Thứ nhất, những công trình, tiểu luận nghiên cứu, phê bình của họ được đưa lên mạng, tạo điều kiện cho người khác dễ dàng chia sẻ, tham khảo. Từ đó, chúng ta có thể thấy sự gần gũi, tương đồng đến kì lạ của các trường phái lý thuyết mà các nhà phê bình trẻ ngày nay theo đuổi: hậu hiện đại, hậu thực dân, nữ quyền luận… Thứ hai, họ đa phần đều là bạn bè của nhau trên thế giới mạng, có thể nói chuyện trực tuyến/tiếp với nhau bất kì lúc nào, đang ở bất kì đâu, nhờ vào Facebook, Zalo, Viber, Yahoo, Skype, Twitter… Đặc trưng này tạo điều kiện để ra đời những trường phái (écoles) phê bình trong tương lai. Dĩ nhiên, muốn tạo nên trường phái phê bình còn dựa trên nhiều yếu tố khác, nhưng sự giao tiếp, sự trao đổi tư tưởng là điều kiện tiên quyết.

Mặc dù có nhiều thuận lợi, nhưng nghiên cứu văn học thế hệ f vẫn phải đối mặt với “những con thủy quái hồ Loch Ness” – tức nhiều khó khăn và nguy cơ trong thời đại viết của họ. So với mặt bằng chung của người đọc bình dân, tác phẩm phê bình của họ thường vượt quá tầm đón nhận của độc giả thông thường. Bởi vì, khác với phê bình ấn tượng của Hoài Thanh, cũng khác với phê bình tiểu sử học hoặc xã hội học truyền thống, đa phần nhà phê bình thế hệ f đều là phê bình lý thuyết (lấy lý thuyết làm đối tượng phê bình), hoặc ứng dụng những lý thuyết mới mẻ của phương Tây vào việc khảo cứu văn bản. Lối phê bình này kén người đọc, dễ tạo cảm giác khô khan, nặng nề, lại đòi hỏi người đọc phải có tầm đón nhận nhất định, có sự tìm hiểu sơ bộ về lí thuyết. Mặt khác, nhằm truy cầu cái mới có tính cách mạng, vượt chuẩn, lệch chuẩn, phù hợp với các lý thuyết mà họ theo đuổi, các nhà phê bình thế hệ f thường không chọn tác phẩm dễ đọc, các bestseller, những tượng đài cũ kĩ, mà chủ yếu lấy đối tượng khảo cứu là những tác gia, tác phẩm có sự phổ biến hẹp, hoặc nổi danh trên thế giới nhưng ở Việt Nam có thể còn vượt ngưỡng tiếp nhận với đa phần người đọc. Ví dụ, đối tượng quen thuộc của họ thường là những nhà văn đổi mới về sau như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Đặng Thân… ở Việt Nam hoặc Kafka, Márquez, Murakami, Houellebecq… trên thế giới. Nhiều người đọc, trong đó có cả những nhà phê bình khác thế hệ không thể đọc, hoặc không thích những đối tượng nghiên cứu nói trên, công trình phê bình về nhóm đối tượng này cũng dễ bị loại ra khỏi tính hợp thức của sự đọc. Thứ ba, không thể không tính đến sự phức tạp của nền tảng mạng, nơi mọi tri thức, văn bản đều có quyền tồn tại, chu chuyển, chia sẻ. Từ đó, thiếu đi một chuẩn kiểm định, một chuẩn xuất bản, tức là đánh mất bộ lọc quan trọng đối với nghiên cứu lệch lạc, phiến diện hoặc đơn thuần không có giá trị. Thứ tư, khoảng cách thế hệ phê bình, mà cốt lõi là sự khác nhau về lý thuyết phê bình, dễ tạo ra ngộ nhận, phê phán có tính quyền uy của những người đi trước với thế hệ f. Mặc dầu, không phải mọi phê phán đều thiếu bao dung và do “khoảng cách lí thuyết” gây nên.

Do vậy, muốn thoát khỏi sự truy bức của “những con thủy quái hồ Loch Ness”, nhà phê bình trẻ thế hệ f cần những điều kiện sau: Thứ nhất, cần giới thuyết kĩ càng hơn, chi tiết hơn về các lý thuyết mà mình sử dụng, cũng như đối tượng mà mình khảo cứu. Cũng cần tính đến tầm đón nhận của người đọc phổ thông, tính chất khoa học cụ thể ở nơi công trình, tiểu luận của các nhà phê bình công bố (báo in, báo mạng, hội thảo, kỉ yếu…) nhằm điều chỉnh lối viết cho phù hợp. Dĩ nhiên, việc thông hiểu các tác phẩm phê bình không phải dành cho mọi độc giả, nên chúng ta cũng không đòi hỏi viết phê bình ngày nay phải có trình độ ngang với kiểu viết tuyên truyền, cổ động như thời bình dân học vụ. Hiểu là một quá trình, đòi hỏi sự nỗ lực cả từ phía người đọc. Do đó, tôi tin rằng, cùng với sự đi lên của dân trí, sự phát triển nhanh chóng của khoa ngữ văn học, sự giao lưu, hội nhập với thế giới một cách toàn diện, những công trình phê bình của các nhà nghiên cứu thế hệ f sẽ không còn quá “bí hiểm” đối với người đọc trong tương lai gần. Thứ hai, nền tảng mạng là nơi khởi đầu, nhưng việc chính thức xuất bản thành tác phẩm in quy chuẩn, hoặc công bố tiểu luận trên các tạp chí khoa học hàng đầu, đặc biệt là các tạp chí khoa học quốc tế có nằm trong danh mục ISI, Scopus lại cần là đích đến của thế hệ f. Kết hợp cả nền tảng mạng và nền tảng xuất bản in, các nhà nghiên cứu thế hệ f sẽ vừa xác lập được tính chính thống, lại vừa thể hiện được tầm ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống văn học. Một loạt công trình phê bình đã xuất bản của các nhà nghiên cứu thế hệ f thời gian gần đây như Đoàn Ánh Dương, Hoàng Thụy Anh, Đoàn Minh Tâm, Nguyễn Mạnh Tiến, Nguyễn Thanh Tâm, Lê Thị Dương, Ngô Hương Giang, Yến Thanh… chính là nỗ lực quy chuẩn hóa, chính thống hóa các công trình nghiên cứu của thế hệ f. Thứ ba, về khoảng cách lý thuyết giữa các thế hệ phê bình, tôi tin rằng, cùng với quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới, sự giới thiệu, dịch thuật diễn ra gấp gáp, mau lẹ ngày nay, những lằn ranh và đường biên ấy sẽ dần bị xóa bỏ. Các nhà nghiên cứu thế hệ đi trước sẽ dần nhận ra trong quá khứ, họ cũng từng một thời trẻ tuổi, cũng từng gánh chịu nghi ngại cho các tìm tòi, khám phá có tính cách tân, lệch chuẩn của mình.

Tôi từng có một suy nghĩ thú vị thế này, có nhiều nhà nghiên cứu “trưởng lão” cứ làm như họ không có tuổi trẻ, tức sinh ra ngay lập tức đã già, đã trưởng thành, không bao giờ được phép vấp váp, sai lầm. Nhưng đồng thời khi đó, trong tôi cũng nảy sinh một tiếng nói đối thoại lại. Đó là thế hệ f ngày nay cũng không thể mãi trẻ, không mãi cách tân và tìm tòi quyết liệt. Tức là, thế hệ f cũng sẽ già, sẽ bị lịch sử bỏ lại sau lưng nếu không dũng cảm dấn thân và ý thức một cách sâu sắc rằng họ cũng có những giới hạn và rồi cũng sẽ bị lịch sử bỏ rơi. Mọi sự tự mãn, ung dung trong vầng hào quang quyền uy và giáo điều mà thế hệ f sẽ (dần) xác lập được, rồi sẽ khiến họ bị tụt lại đằng sau thế hệ nghiên cứu văn học mới, thế hệ G chăng? Lịch sử lý luận phê bình chẳng phải là lịch sử của những thế hệ phê bình gối đầu nhau xô đẩy về phía trước như những con sóng vỗ bờ hay sao?

2. Thực trạng

2. 1. Những giới hạn và khả thể

Trong khoảng mười năm trở lại đây, theo quy luật của thời gian, văn đàn nước nhà chứng kiến sự xuất hiện, quá trình vỡ giọng và nhanh chóng trưởng thành, xác lập tiếng nói có uy tín của một thế hệ nhà lý luận phê bình trẻ, tuổi đời trên dưới 30. Thế hệ những nhà lý luận, phê bình trẻ cuối 7x, 8x này có thể kể đến nhiều gương mặt nổi bật là tôi đã đề cập đến ở đầu sách, trong tiểu luận đầu tiên. Họ là những nhà phê bình thế hệ f như cách nói của Trần Thiện Khanh, tức thế hệ của facebook, của internet, những người viết nên các bài nghiên cứu bằng mười đầu ngón tay. Những nhà lý luận phê bình thế hệ f đã thực sự đã thổi một luồng sinh khí mới mẻ vào nền nghiên cứu văn học nước nhà vốn trong thời gian dài là không gian riêng của những cây đa, cây đề. Họ xông xáo vào những địa hạt phê bình mới, điểm đúng mạch các nỗ lực cách tân của nền văn học Việt Nam (hậu) hiện đại, đặc biệt là khả năng lĩnh hội nhạy cảm trước những cái mới, mà đặc biệt là những cái mới trên bình diện lí thuyết văn chương. Có thể nói, một loạt các hệ lí thuyết mới mẻ (ít ra là mới đối với nền văn học Việt Nam) như phê bình cổ mẫu, phê bình sinh thái, nữ quyền luận, lý thuyết trò chơi, giải cấu trúc, hậu hiện đại, đồng tính luận… đã được các nhà lý luận phê bình thế hệ f thời gian qua giới thiệu, vận dụng hoặc làm phong phú thêm trong quá trình soi chiếu vào thực tiễn nghiên cứu văn học nước nhà.

Tuy vậy, những nhà lí luận phê bình thế hệ f cũng tồn tại trong những giới hạn – cả khách quan lẫn chủ quan giống như bất cứ các thế hệ làm lý luận phê bình đi trước. Xét về mặt chủ quan, có thể có người con nóng vội, sớm hớt ngọn kiến thức, việc vận dụng lí thuyết còn sống sượng, hoặc chưa kịp tính đến sự tương thích giữa đối tượng và lí thuyết. Một số người khác còn cả nể, “lụy tình” nên chưa đủ bản lĩnh từ chối đối với những tác phẩm “hạng hai” nhưng lại có mối quan hệ thân thiết, hoặc đối tượng phê bình là “người sang” miệng có gang có thép. Kiểu “phê bình ngoại giao” này đôi khi chỉ mang lại những lợi ích bên ngoài văn chương, nhưng lại khiến nhà phê bình trẻ không thể tiến xa hơn trong sự nghiệp. Một vài người khác sớm tự mãn, hoặc quá xông xáo vào những cái mới mà bản lĩnh nghề nghiệp chưa cao để từ đó nhận định trở nên cực đoan. Một vài người do điều kiện mưu sinh khó khăn, phải chấp nhận đi vào phê bình báo chí, phê bình điểm sách – những loại hình phê bình mà tôi gọi là “phê bình theo đặt hàng” hoặc “phê bình PR”. Mặc dù vậy, quan điểm của tôi là những giới hạn hiện nay của phê bình trẻ thế hệ f nếu có lại chủ yếu nằm ở các điều kiện khách quan, hơn là những lý do chủ quan. Bởi vì, tất cả những lý do chủ quan nói trên không hoàn toàn đúng với mọi trường hợp, hoặc đa phần không mắc phải bất kì lý do giới hạn chủ quan nào, nhưng họ vẫn không thực sự (có điều kiện) phát triển như trông đợi. Nhiệm vụ cần thiết lúc này là chỉ ra nguyên nhân khách quan của hiện trạng những cây bút viết lí luận phê bình thế hệ f (trong đó có bản thân tôi) còn phải chấp nhận một số giới hạn. Từ đó, đi tìm những giải pháp hiệu quả, chẩn đúng bệnh mới có thể bốc đúng thuốc nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ lí luận phê bình trẻ.

Thứ nhất, không dưới một lần tôi đã chỉ ra sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo các nhà lý luận, phê bình trẻ tương lai – đó là những cử nhân nghiên cứu văn học trong các trường đại học. Xét về mặt lí thuyết, chúng ta đều biết khoa nghiên cứu văn học bao gồm bốn phân ngành chính là lịch sử văn học, phê bình văn học, lí luận văn học và phương pháp luận nghiên cứu văn học. Theo lí thuyết, cứ cho trung bình một cử nhân nghiên cứu văn chương trong 4 năm học tập (tương ứng 8 học kì) ở các trường đại học sẽ học xấp xỉ trên dưới 80 học phần (môn), tức một học kì học khoảng 10 học phần (1 học phần thông thường có 2 tín chỉ), thì mỗi phân ngành phải có khoảng 20 môn, chiếm ¼ tổng chương trình. Theo điều kiện lý tưởng ấy, một cử nhân nghiên cứu văn chương tương lai đã được trang bị đến gần 60 môn (thuộc phê bình văn học, lý luận văn học và phương pháp luận nghiên cứu văn học) phục vụ trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu lý luận phê bình trong tương lai, chiếm khoảng 80% chương trình. Tuy nhiên, thực tiễn chương trình lại không diễn ra như vậy. Bởi vì, sinh viên mất không ít hơn một học kì để thực tập, thực tế (mất đi khoảng thời gian cho tương đương khoảng 10 học phần), lại nữa họ phải mất thêm khoảng thời gian tương ứng gần một học kỳ cho các môn đại cương như Thống kê học, Môi trường và con người, Ngoại ngữ, Lý luận chính trị… Như vậy, tổng chương trình phục vụ nghiên cứu văn chương chỉ còn khoảng trên dưới 60 học phần (tương ứng với khoảng 120 tín chỉ và 6 học kì). Mỗi phân ngành như vậy chỉ được học khoảng 15 môn. Nhưng thật ra, số môn học liên quan đến lí luận phê bình ít hơn nhiều, với chỉ trên dưới tổng số 10 môn mà thôi. Trong đó, lí luận văn học thường chỉ có 3 môn bắt buộc (Nguyên lý lý luận văn học, Tác phẩm và thể loại, Tiến trình văn học), Phê bình văn học có khoảng từ 1 đến 2 môn, Phương pháp luận nghiên cứu văn học có 1 môn và xấp xỉ 6 môn lí thuyết chuyên sâu tự chọn như phân tâm học, hậu hiện đại, tự sự học, thi pháp học, tiếp nhận văn học… Tôi nhẩm tính, sinh viên được đào tạo để làm những nhà lý luận phê bình văn học trong tương lai sẽ chỉ được trang bị không quá 15 học phần thuộc 3 chuyên ngành trực tiếp liên quan đến nghề nghiệp của họ, trong khi đáng ra họ phải học đủ 45 học phần.

Tri thức văn học sử không thể nói là không cần thiết cho công việc tương lai, nhưng quá nhiều tri thức văn học sử mà thiếu đi kiến thức về lí thuyết chuyên ngành/sâu sẽ khiến những nhà nghiên cứu văn học trẻ mất khả năng nhìn nhận ra cái mới, cũng như thiếu năng lực phát hiện ra những cách tân của văn học đương đại, một khi tầm đón nhận của họ chủ yếu dừng ở hệ hình tiền hiện đại. Ngoài ra, cũng cần nhìn nhận thẳng thắn rằng đa phần những bộ giáo trình lí luận văn học của ta hiện nay đã quá cũ, chủ yếu được viết từ trước giải phóng hoặc trước Đổi mới, chịu ảnh hưởng trực tiếp của những trung tâm lí luận văn học lớn như Nga – Xô và Trung Quốc. Về sau, những bộ giáo trình này đã liên tục được tái bản, cập nhật nhưng nhìn chung vẫn là “bình mới rượu cũ”, cách tân nhỏ giọt, bộ phận, chưa giúp sinh viên có thể bắt kịp với trình độ lí thuyết văn học trên thế giới. Việc giới thiệu bộ Lí luận văn học (Wellek và Warren) của Trung tâm Quốc học là trường hợp hiếm hoi một bộ lí luận văn học phương Tây hiện đại được xuất bản, nhưng số lượng bản in rất hạn chế và cũng không nhiều trường Đại học lựa chọn bộ giáo trình này. Một khi những nhà nghiên cứu văn học trẻ tương lai bị lạc hậu về lí thuyết văn học đương đại, việc áp dụng kiến thức vào công việc sau này sẽ tạo ra những độ chênh phô khó lòng lấp đầy. Đa phần những sinh viên ngữ văn ngày nay tốt nghiệp ra trường, khi đối diện với những bậc thầy văn chương đương đại (thuộc các trào lưu hiện đại và hậu hiện đại) như M.Proust, W.Faulkner, G.G.Márquez, M.V.Llosa, F.Kafka, U.Eco, J.L.Borges… thường sẽ có một khoảng cách thẩm mỹ lớn, dẫn đến tiếp nhận sai, hoặc phản tiếp nhận.

Hệ quả dẫn đến là nhà nghiên cứu tương lai sẽ chủ yếu hoạt động phê bình, hoặc tham gia giảng dạy văn chương ở các trường theo phương pháp xã hội học và tiểu sử học. Hơn nữa, việc quá thiếu và yếu nền tảng lí luận phê bình sẽ không chỉ đẩy nhà nghiên cứu trẻ ra xa trình độ và quan điểm thẩm mỹ của nền văn học thế giới đương đại, mà còn giới hạn họ trong cách đọc hiểu lịch sử văn học. Đa phần những cử nhân nghiên cứu văn chương khi mới ra trường, bắt tay vào công việc phê bình đều phải mất công cơ quan đào tạo lại, hoặc chính họ phải tự đào tạo lại mới có khả năng thông diễn và thẩm định đúng đắn các giá trị văn chương đương đại. Tôi coi đây là giới hạn cốt lõi có tính nền tảng đối với trình độ của các nhà nghiên cứu trẻ hiện nay và tương lai. Việc cần làm ngay đó là tái cấu trúc lại chương trình theo hướng tăng cường chất và lượng những học phần thuộc lí luận và phê bình văn học.

Lý do khách quan thứ hai cũng hết sức quan trọng, đó là không ai có thể sống được bằng nghề viết lý luận phê bình văn học, bởi sự đãi ngộ mà họ thu được từ các công trình nghiên cứu là quá thấp so với mức sống hiện tại. Điều này kéo theo tác hại mà chúng ta thời gian qua vẫn thường hay lo lắng đó là Việt Nam không có nhà phê bình chuyên nghiệp. Đa phần những nhà lí luận phê bình trẻ hiện nay công tác tại các Viện nghiên cứu, các trường đại học hoặc các tạp chí văn học nghệ thuật, tạp chí khoa học. Tức là, về cơ bản, họ đã được Nhà nước bao cấp, trả lương cho để sống nhằm nghiên cứu văn chương, hoặc trong công việc của họ ở cơ quan bắt buộc phải nghiên cứu văn chương. Việc nghiên cứu lúc này mang tính hành chính sự vụ hơn là hoạt động nghề nghiệp chuyên môn mang tính tất yếu tự thân. Ví dụ, hằng năm giảng viên các khoa ngữ văn/văn học buộc phải có một số bài nghiên cứu văn học nhất định, mới đủ chuẩn xét thi đua. Nếu không hoàn thành sẽ bị hạ lương hoặc mất danh hiệu thi đua. Như vậy, việc nghiên cứu đã bị hành chính hóa, hoặc “thiết chế hóa”, “kỷ luật hóa”, “thi đua hóa” chứ không phải một nhu cầu, năng lực tự thân giúp mỗi cá nhân có thể kiếm sống bằng ngòi bút.

Đồng lương của các cây bút trẻ viết lí luận phê bình hết sức eo hẹp, chỉ nhỉnh hơn lương cơ bản đôi chút, nếu như không làm thêm, làm vượt, họ hầu như không thể sống bằng năng lực và đam mê chính yếu. Một bài phê bình văn học hoặc nghiên cứu lí thuyết hiện nay đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành uy tín, hoặc các tạp chí văn nghệ trung ương và địa phương có mức đãi ngộ chủ yếu nằm trong khoảng từ 3 trăm đến 5 trăm ngàn. Hãn hữu lắm mới có tạp chí trả trên 7 trăm đến 1 triệu, nếu không phải là bài đặt hàng hoặc bài có “quan hệ đặc biệt”. Những tờ báo (ví dụ như Tuổi trẻ) có mức đãi ngộ tốt hiện nay đa phần chỉ cần phê bình điểm sách, hoặc rất giới hạn về chủ đề cũng như dung lượng chữ. Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng đặc điểm những công trình nghiên cứu phê bình nghiêm túc, có tính phát hiện học thuật hiện nay, thứ nhất có dung lượng phải xấp xỉ trên 7000 chữ (khoảng 10 trang A4). Thứ hai đều nhắm vào những tác phẩm hoặc những vấn đề lí thuyết không dành cho độc giả phổ thông của các báo, mà có tính hàn lâm chuyên sâu, chủ yếu dành cho người đọc chuyên nghiệp, có tầm đón nhận cao. Một số tạp chí khoa học có chỉ số khoa học được tính điểm hiện nay (nhất là những tạp chí khoa học ở các trường đại học lớn nằm trong danh mục tính điểm khoa học phong học hàm, học vị) có quy định phải nộp lệ phí khi nộp bài (khoảng từ 600 ngàn đến hơn 1 triệu). Một số tạp chí khác không có nhuận bút, hoặc qui nhuận bút ra… tạp chí để trả cho tác giả. Như vậy, nếu chưa tính đến những tạp chí hoặc những trường hợp mà người viết phải trả những khoản “lót tay” bất minh để đăng bài, thì chúng ta cũng đã có thể thấy công tác nghiên cứu văn chương hầu như không mang lại nguồn lợi kinh tế nào đáng kể có thể giúp nhà phê bình có thể tự sống bằng ngòi bút. Trừ một số rất rất ít cây bút trẻ có tên tuổi và phải viết theo đặt hàng thời vụ, chiều theo tầm đón nhận phổ thông và gu đặt bài cũng như sự cắt xén thô bạo của các biên tập viên nhằm PR sách.

Thực tiễn công bố các nghiên cứu theo đường sách lại càng khó khăn hơn, mặc dù những nhà lý luận phê bình lớn đều phải khẳng định tên tuổi thông qua các công trình dài hơi xuất bản đàng hoàng, chứ không thể chỉ đăng vài ba tiểu luận ngắn trên các báo. Theo kinh nghiệm thực tế của tôi, in một công trình nghiên cứu hiện nay sẽ phải chuẩn bị một khoản kinh phí từ 20 đến 35 triệu đồng cho khoảng 700 bản đến 1000 bản in, mỗi bản không quá 500 trang. Các nhà xuất bản lại rất khó bị thuyết phục để đứng ra nhận phát hành và phân phối kinh doanh sách nghiên cứu của những cây bút trẻ. Đa phần những nhà văn trẻ dễ được các nhà xuất bản chú ý và đồng ý tài trợ, phát hành hơn các nhà lí luận phê bình trẻ, do mức độ bán chạy của tác phẩm văn học cao hơn so với công trình nghiên cứu, mà qua đó thực chất cốt lõi là vấn đề về lợi nhuận kinh doanh sách. Chính vì vậy, những cây bút nghiên cứu trẻ nếu như không may mắn được các cơ quan văn nghệ hay các quỹ văn hóa tài trợ tiền, thì đa phần phải bỏ một khoản tiền túi không hề nhỏ (nếu không muốn nói là quá lớn) so với thu nhập của họ để in sách và tự phát hành, mà chủ yếu là tặng người quen, đồng nghiệp.

Giới hạn thứ ba mà những nhà lí luận phê bình trẻ phải đối mặt đó là những áp lực, rủi ro và cám dỗ của nghề. Có thể nói, làm lí luận phê bình luôn gặp nhiều nguy cơ hơn so với sáng tác văn chương. Vì sáng tác chỉ có hay và dở, mà ranh giới hay và dở thật mơ hồ, tùy theo người tiếp nhận hoặc điều kiện, thời điểm tiếp nhận. Mà có dở thì cũng đã sao, vì sáng tạo là cả quá trình. Nhưng lí luận phê bình thì không có hay và dở, mà chỉ có đúng và sai. “Đúng” thì không có gì lạ, nhưng “sai” thì thật nhiều hệ lụy, phê phán đôi khi dễ làm người viết trẻ chùn chân, nhụt chí, hay bỏ hẳn luôn nghề nghiệp, đam mê. Chúng ta có lẽ cần ý thức rằng ai cũng cần một quá trình nhận đường hoặc trưởng thành, được phép sai lầm hay được quyền cất lên tiếng nói khác, ai cũng cần được bao dung, giúp đỡ nếu không may nhận định chưa thấu đáo, thiên lệch. Do đó, cách ứng xử của các thiết chế, các thế hệ đi trước cần nhân ái, cảm thông hơn, chấp nhận đối thoại và lấy tiêu chí học thuật làm cơ sở. Cần uốn nắn, góp ý chân thành đối với các cây bút lí luận phê bình trẻ, hơn là sự phê phán nặng nề, phủ định tuyệt đối.

Khó khăn, giới hạn cơ bản thứ tư đặt ra đối với những nhà lý luận phê bình trẻ, đó là những sân chơi và sự quan tâm của xã hội và bạn đọc dành cho họ là quá ít. Chúng ta thấy rằng những nhà văn trẻ, dẫu vẫn có nhiều thiệt thòi trong đời sống văn chương nhưng họ vẫn có nhiều cơ hội xuất hiện hơn những người viết lý luận phê bình trẻ. Hằng năm hoặc một vài năm, vẫn có những tuyển tập sách dành riêng cho sáng tác trẻ, mà tiêu biểu là tủ sách “Văn học tuổi hai mươi” của Nhà xuất bản Trẻ dành cho truyện ngắn và tiểu thuyết. Một số nhà xuất bản, tạp chí, báo văn nghệ như Văn nghệ, Nxb Thanh Niên, Văn nghệ quân đội, Đất Quảng, Sông Hương, Áo Trắng… thường xuyên tổ chức các cuộc thi thơ hay truyện ngắn, tuy nhiên một cuộc thi hay giải thưởng dành cho lí luận phê bình trẻ hiện nay theo hiểu biết hết sức nông cạn của tôi là chưa có. Người viết lí luận phê bình trẻ không có sân chơi, hoặc không có sự quan tâm thỏa đáng, họ buộc phải “tự chơi” với mình và giới của mình trên mạng internet, hoặc chấp nhận chơi chung những sân chơi dành cho mọi lứa tuổi cầm bút. Dĩ nhiên, vẫn có những trường hợp nhận được giải thưởng hoặc hỗ trợ xuất bản, giới thiệu công trình nghiên cứu, nhưng khi đó, những nhà lí luận phê bình trẻ buộc phải tranh đua với những ứng cử viên danh tiếng, cây đa cây đề, cho nên cơ hội của họ là không nhiều. Trường hợp nhà phê bình trẻ Đoàn Ánh Dương hoặc dịch giả Nham Hoa đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2014 là một sự kiện khá hiếm hoi mà những người viết lí luận phê bình trẻ được chú ý, được đánh giá đúng với năng lực giữa một rừng những cây bút đã thành danh.

Chính vì vậy, tôi mong mỏi trong tương lai sẽ có những quỹ riêng của các Hội văn nghệ, của Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, các nhà xuất bản hay tạp chí tài trợ cho các nhà lí luận phê bình trẻ công bố tiểu luận hoặc chuyên luận. Một cuộc thi dành cho lí luận phê bình là một ý tưởng khá kì cục, tuy nhiên, một giải thưởng dành riêng cho những nhà lí luận phê bình trẻ là điều nên làm nhằm động viên kịp thời đội ngũ và phát hiện những gương mặt mới. Trên các báo, tạp chí văn nghệ cũng cần có chuyên mục riêng để những nhà lí luận phê bình trẻ cất lên tiếng nói văn chương của mình theo mức đãi ngộ xứng đáng công sức nghiên cứu của người viết.

Với tất cả khả thể và giới hạn, tôi vẫn tin thế hệ lí luận phê bình trẻ hiện nay sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh văn đàn với những công trình tâm huyết, trí tuệ, thể hiện nhiều tìm tòi mới mẻ về mặt lí thuyết và thực tiễn lẫn thái độ tri thức đúng đắn trước thời cuộc. Họ sẽ là thế hệ đi xa và nhìn rộng hơn tất thảy, không phải bởi những thuận lợi của quá trình toàn cầu hóa, mà là họ là thế hệ may mắn được đứng trên vai những người khổng lồ.

2.2. Mối quan hệ giữa sáng tác trẻ và nghiên cứu trẻ

Qua thực tiễn sáng tạo thơ ca và cả viết phê bình văn học, trong khoảng thời gian gần 5 năm, từ Hội nghị những người viết văn trẻ lần VIII đến Hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ IX (2011 – 2016), tôi cảm nhận rằng giữa phê bình trẻ và sáng tác trẻ ngày nay vẫn còn một khoảng trống chưa được lấp đầy. Có thực tế đáng suy ngẫm rằng, nhà văn/thơ trẻ ngày nay (gọi chung là nhà văn trẻ) thường được phát hiện, cổ vũ, đề cao bởi những… nhà phê bình, nhà văn/thơ lớn tuổi. Một loạt nhà văn trẻ trong nhiều năm qua đã được những cây bút thành danh như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Huy Thiệp, Hữu Thỉnh, Hoàng Ngọc Hiến, Du Tử Lê, Phạm Xuân Nguyên phát hiện, bồi dưỡng và giới thiệu với công chúng. Trong khi đó, nhà phê bình trẻ lại có xu hướng rút lui vào tháp ngà của học thuật. Họ vẫn rất xông xáo, nhạy cảm, năng động với cái mới, nhưng lại hướng nghiên cứu của mình vào văn học phương Tây, tác gia kinh điển, những vấn đề lí thuyết thuần túy hoặc các hiện tượng văn học đã ổn định về mặt giá trị.

Trong những công trình đã xuất bản chính thống thành sách gần đây của các nhà phê bình trẻ (hoặc bị xem là “vẫn còn” trẻ), mặc dù số lượng khá phong nhiêu, ta chỉ thấy thực sự có một công trình trực tiếp lấy đối tượng nghiên cứu là văn học trẻ của Đoàn Minh Tâm. Một số công trình khác, như của Hoàng Thụy Anh hay Phùng Gia Thế có vài tiểu luận nhỏ nghiên cứu đến văn học trẻ. Như vậy, khoảng trống ngăn cách giữa sáng tác trẻ với phê bình trẻ đang đặt ra là rất đáng suy ngẫm. Theo tôi, thực trạng này tồn tại là do hai nguyên nhân khách quan và chủ quan cơ bản.

Nguyên nhân khách quan có thể kể đến là sáng tác trẻ hiện nay, được xuất bản toàn quốc, đặc biệt là thông qua những kênh xuất bản, phát hành, phân phối có năng lực như Phương Nam, Tao Đàn, Nhã Nam, Bách Việt, Đinh Tỵ, Văn Lang, Đông A, Nxb Trẻ, Nxb Tri thức, Nxb Văn học, Nxb Hội Nhà văn, Nxb Kim Đồng… là rất hiếm hoi. Trừ một vài trường hợp may mắn như Uông Triều, Meggie Phạm, Kawi, Hamlet Trương, Iris Cao, Phan Ý Yên, Tờ Pi, Anh Khang, Lê Minh Phong, Nguyễn Phong Việt, Văn Thành Lê, Hoàng Công Danh… Còn lại đều ngậm ngùi cay đắng tự bỏ tiền in, tự phát hành (mà chủ yếu là đi cho, nài nỉ người khác đọc), hoặc phổ biến hơn là đăng tải trên nền tảng mạng. Cách thức xuất bản tự bỏ tiền túi in hoặc đưa lên mạng đem đến hệ quả không chính thống, hoặc rất khó để các nhà phê bình trẻ có thể tiếp cận tác phẩm. Đọc lại hàng loạt tác phẩm đầy chất lượng trong dăm năm qua của Nhụy Nguyên, Lê Vũ Trường Giang, Lê Vĩnh Thái, Trịnh Sơn, Nguyễn Lãm Thắng, Đàm Huy Đông, Lê Hưng Tiến… giới phê bình cảm thấy rất xót xa. Những tác phẩm này có nhiều sáng tạo thực sự mang ý hướng cách tân về mặt hình thức, chuyển tải nội dung tư tưởng mới mẻ, được nhận không ít giải thưởng danh giá cả ở trung ương và địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế các tác phẩm ấy có số bản in gói gọn trong 200 đến 300 bản, nhiều nhất là 500 bản, với loại giấy, mực kém chất lượng. Kinh phí do nhà văn tự bỏ tiền nhà ra in và “tự phát hành”. Do đó, sau khi in xong cũng chỉ biết gửi tặng khắp nơi, chấp nhận tốn tiền bưu điện với một niềm mong mỏi khắc khoải, bi đát là… người được tặng sách đọc cho lấy vài trang, hoặc chí ít nếu không đọc cũng không vứt ra hàng đồng nát hay hiệu sách cũ. Có nhà văn còn nói đùa rằng, ngày nay tặng thơ văn của chính mình phải tặng kèm tiền, ít ra cũng phải 100 ngàn, gọi là thù lao đọc cho độc giả. Ngẫm ra thấy nền văn chương (trẻ) nước nhà thật là… bi tráng.

Khoảng trên dưới 10 bài phê bình của tôi thời gian qua về văn học trẻ Việt Nam, trên thực tế đều dựa trên mối quan hệ cá nhân, được đích thân tác giả tặng sách. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến các tác giả trẻ như Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy, Uông Triều, Đàm Huy Đông, Phạm Phong Lan, Miên Di, Trịnh Sơn, Trần Đức Tĩnh, Văn Thành Lê, Hoàng Công Danh, Tiểu Quyên, Nguyễn Đăng Khoa… Đôi khi biết có tác phẩm hay của bạn bè cùng trang lứa, muốn mua ủng hộ hay giới thiệu cho bạn bè, học trò tìm đọc, nghiên cứu nhưng cũng chẳng thể mua được trên thị trường toàn quốc. Trong số tác phẩm được xuất bản rộng rãi, quảng bá rình rang, thực ra không phải tác phẩm nào cũng có giá trị nghệ thuật đích thực, có thể sử dụng để làm đối tượng để phê bình. Rất nhiều tác giả trẻ hàng best seller hiện nay là những người viết truyện ngôn tình, làm thơ “tán gái”, viết tạp văn chiều theo cảm xúc, tâm trạng độc giả teen. Tác phẩm của họ có thể in đến vài vạn bản, nhưng chỉ đơn giản phục vụ nhu cầu giải trí của độc giả với tầm đón nhận trung bình dễ dãi. Tác phẩm dạng này dĩ nhiên vẫn có thể khiến đời sống văn học nước nhà thêm sôi động, nhưng chúng hoàn toàn không có đóng góp gì trong tiến trình chuyển đổi hệ hình tư duy nghệ thuật, mở ra cánh cửa cách tân và làm vận động nền văn học Việt Nam đương đại. Một vài câu chuyện tình tay ba sướt mướt, cuốn này khác cuốn kia chỉ ở cái bìa hay cốt truyện, những bài thơ tình éo le, trúc trắc cảm xúc đầy tính chất… kêu gọi lòng thương hại của độc giả… thất tình hoặc FA (độc thân), thực ra không có lợi, thậm chí chỉ có hại cho tư duy thẩm mỹ, ăn mòn quỹ thời gian của người đọc, nhất là người đọc trẻ. Dạng văn học này ta có thể liên tưởng đến những bộ phim dài lê thê hàng chục ngàn tập của Ấn Độ như Cô dâu tám tuổi – vốn dành cho các bà nội trợ giết thời gian xem. Đọc/xem chúng rất dễ “gây nghiện”, nhưng không giúp người tiếp nhận hoàn thiện năng lực thẩm mỹ cũng như rút ra được tư tưởng mới về bản thể, xã hội và tồn tại. Hạn chế khách quan của người viết lí luận phê bình xuất phát từ thực tiễn sáng tạo trên, đó là những bài phê bình lấy đối tượng văn học trẻ thường khó đăng trên các báo và tạp chí. Tổng biên tập, biên tập viên các tạp chí và báo thường có xu hướng chấp nhận đăng tải những bài phê bình về tác gia và tác phẩm thành danh, vì bạn đọc quen thuộc với những tác gia này. Chẳng nhà quản lý, biên tập nào lại chấp nhận một bài phê bình mà bản thân tác phẩm không được xuất bản toàn quốc, hoặc chỉ in hạn hẹp vài trăm cuốn được tác giả tự đem đi tặng. Như vậy, xuất phát từ lí do công bố và kinh phí (nhuận bút), nhằm tránh lãng phí công sức dẫn đến nhà phê bình trẻ thường ngại ngần đụng chạm đến văn học trẻ.

Hạn chế chủ quan trong mối quan hệ giữa sáng tác trẻ với phê bình trẻ, đó là nhà văn trẻ ngày nay (đặc biệt là nhà thơ và nhà văn viết truyện ngôn tình) không có nhiều cách tân về mặt tư duy nghệ thuật. Hạn chế này xuất phát từ chỗ họ chỉ sáng tạo theo cảm xúc cá nhân, lấy “vốn tự có” và năng khiếu trời cho để viết. Vốn liếng cá nhân này thường thăng hoa khi họ còn rất trẻ, mới bước vào văn đàn, thể hiện tập trung trong một vài tác phẩm đầu tay, nhưng rồi sau đó nhanh chóng hụt hơi, cạn nguồn trải nghiệm (đọc và sống). Vốn ngôn ngữ hạn hẹp và cái nhìn đầy chủ quan của một cá thể cũng là giới hạn thường thấy của nhà văn trẻ. Người trẻ dĩ nhiên không thể đi nhiều, biết nhiều, trải nghiệm nhiều về thực tại nhằm phản ánh vào văn học. Họ chỉ có thể lấp đầy khoảng trống tư tưởng và tư liệu ấy qua ngả đọc mà thôi. Nhưng đa phần những tác giả trẻ ngày nay lười đọc, hoặc chỉ đọc những gì mang tính giải trí, cùng trình độ. Họ rất ngại ngần trước nền tảng triết học, mỹ học, lí thuyết văn học mới, dẫn đến cái nhìn thế giới và bản thể chỉ mang tính địa phương, viết theo quán tính có sẵn, rất dễ đọc, dễ hiểu và dễ dàng trôi đi mất trong sự lãng quên.

Trong vài cuộc thảo luận gần đây, nhiều nhà văn thành danh “tung chiêu” với các nhà văn trẻ rằng viết là bất cần/biết đến các lí thuyết, đến các trào lưu mới mẻ, chỉ cần “hay” là được. Nhưng tiêu chí như thế nào để xác định là (một tác phẩm) “hay”? Tôi nghĩ rằng luận điểm này đầy tính “mị dân”. Tôi không cho rằng, ngày nay, làm một bài thơ Đường là dở và làm một bài thơ Tân hình thức mới hay. Mỗi thể loại, hình thức, trào lưu đều có giá trị riêng của nó, tức là đều “hay” cả. Nói như Umberto Eco trong Đi tìm sự thật biết cười, đại ý rằng khi một nền nghệ thuật đã được lịch sử cưu mang, thì không có chuyện cái này thay thế cái kia một cách dễ dàng, mà chỉ có thể nói cái này đã thay đổi cái kia một cách sâu sắc. Eco đưa ra ví dụ đáng suy ngẫm, đó là chiếc xe đạp. Ngày nay, người ta vẫn dùng xe đạp, nó vẫn rất hữu ích khi tập thể dục, thi đấu thể thao, di chuyển trong một số trường hợp đặc thù… nhưng nó không còn là phương tiện giao thông phổ biến, không còn là cách thức và động lực giao thông chính của xã hội. Xã hội hậu công nghiệp 4.0 ngày nay hầu như không mấy ai chuyên chở, giao thương, truyền tin… bằng xe đạp nữa, trừ một vài người và ngành nghề đặc thù, còn khó khăn về kinh tế. Vị thế xe đạp không mất đi hẳn trong xã hội, nhưng chức năng đã thay đổi hoàn toàn khác giai đoạn trước. Thơ Đường ngày nay vẫn còn sức lan tỏa, vẫn hay, nhưng xây dựng diện mạo thơ đương đại Việt Nam bằng thể loại này thì chẳng khác gì ngày nay ta vẫn đi xe đạp để tiếp đón nguyên thủ quốc gia nước bạn, dùng xe đạp ôm thay taxi, hay chuyển phát “nhanh” EMS bằng xe đạp. Như thế thì chậm quá, lạc hậu quá, thậm chí là bôi bác, dã man. Ngày nay, chúng ta vẫn bảo tồn nhã nhạc cung đình, tuồng, chèo, cải lương, hát xoan… thậm chí còn xem đó là di sản phi vật thể, là hồn cốt của dân tộc. Nhưng dứt khoát đó không thể là diện mạo đương đại và tương lai của nền nghệ thuật nước nhà. Thế giới không trao giải Nobel cho các vở kịch truyền thống kiểu tuồng, chèo. Họ cũng không mấy hiểu các thể loại này bởi nước họ không hề có. Do đó, những di sản phi vật thể truyền thống là cái mà chúng ta có thể giới thiệu về bản sắc dân tộc mình trong quá khứ, nhưng không thể là cách mà ta đối thoại với thế giới (hậu) hiện đại bên ngoài. Nhã nhạc cung đình ngày nay được bảo tồn khá tốt, đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể của thế giới, nhưng không gian để diễn xướng của nghệ thuật này đã mất đi hoàn toàn, chúng ta không thể nào phục dựng. Nhã nhạc không phải là thứ âm nhạc thông thường nghe để vui tai, giải trí, nó là nhạc nghi lễ cung đình, giá trị của nó nằm phần lớn ở sự uy nghiêm, trọng đại khi các nghi lễ hoàng gia diễn ra (lễ tế giao, lễ đăng quang của vua)… Chúng ta ngày nay dù rất cố gắng nghe nhã nhạc cung đình, nhưng gần như không thể hiểu, dẫn đến rất khó yêu thích (trừ những người dối trá) là bởi không – thời gian phong kiến cung đình đó đã hoàn toàn bị mất đi. Làm những bài thơ “hay” theo kiểu thơ Đường ở thời điểm hiện tại hệt như việc ta đi lại trên những con đường quen thuộc đã dày đặc, chi chít dấu chân của tiền nhân. Những bước đi ấy không vô nghĩa, nhưng nó không mở mang ra được một con đường mới, tư tưởng mới, tương lai mới cho đời sống văn học nước nhà nói riêng và đời sống tinh thần Việt Nam nói chung. Có thể xem những di sản văn hóa/học cũ như chiếc rìu đá, chúng ta giữ gìn trân trọng chúng trong viện bảo tàng như một kí ức, chứ không phải là niềm hi vọng của hiện tại và tương lai. Không thể có một nghệ thuật cao sang mà lại sống lay lắt bằng tiền bảo trợ của chính phủ hoặc Liên hiệp quốc. Người ta trân trọng và giữ gìn chiếc rìu đá như là một quá khứ, một chứng nhân của thời đại mông muội đã qua đi, để cất giữ nhận thức về những gì mà loài người, dân tộc đã có. Sẽ không có ai tin, và cũng không còn ai hy vọng, một ngày kia, nền văn hóa rìu đá kia lại trỗi lên, và loài người lại dã man trần truồng chạy thục mạng trong rừng xanh để săn bắt, hái lượm. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng cũng vậy, có những vấn đề không được phép lãng quên, nhưng chỉ nhớ để mà làm kí ức, hiện tại mới là nơi chúng ta sống, và hiện tại luôn có những tiêu chí cho riêng mình.

Viết văn ngày nay phải dựa trên quan điểm quốc tế, trình độ đương đại (hiện đại/hậu hiện đại) nếu muốn đi xa trong nghề nghiệp. Nhà văn có thể viết cô độc, một mình, thậm chí chết trong cô đơn, nhưng anh ta không được phép giới hạn tầm nhìn, sự hiểu và tư tưởng của mình trong vấn đề cá nhân tầm thường, suy đoán chủ quan. Nhà văn đương đại đang sống trong một thế giới phẳng, thế giới cỡ nhỏ, nơi toàn cầu hóa biến thế giới rộng lớn thành một ngôi làng. Văn chương đích thực ngày nay muốn tồn tại phải mang tầm nhân loại, kịp thời bắt kịp xu hướng của các trường phái lí thuyết, trào lưu nghệ thuật lớn đang thịnh hành trên thế giới. Tôi không nghĩ phải bắt buộc nhà văn đi học lí thuyết văn chương hay triết/mỹ học đương đại phương Tây. Khi sáng tạo, tôi cũng không hề tin nhà văn phải gượng ép, sống sượng đưa vào những lí thuyết ấy. Về cơ bản, anh ta vẫn được phép hoàn toàn tự do trước tờ giấy trắng. Nhưng tầm vóc văn hóa, tầm đón nhận, căn nền tri thức của nhà văn đương đại không thể gói gọn vào kinh nghiệm cá nhân, hay những điển phạm văn chương trung đại nữa. Biết (lí thuyết, trào lưu, triết học đương đại) không phải để áp dụng khiên cưỡng, ám thị vào sáng tạo tác phẩm, mà biết để càng làm giàu hơn bản sắc dân tộc, làm đẹp hơn truyền thống văn học nước nhà. Điều này giống như bác sĩ Đông Y ngày nay càng cần phải biết những tri thức Tây Y, bởi nó sẽ hỗ trợ rất tốt cho điều trị Đông Y (nhất là xét nghiệm cận lâm sàng). Nhờ thông hiểu Tây Y mà thầy thuốc Đông Y sẽ bước qua được sự mê tín quàng xiên, dự đoán mù mờ, những giới hạn tất yếu, nhằm chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền một cách chính xác, hiệu quả.

Nhiều nhà văn thành danh cổ vũ tác giả trẻ viết bất cần kĩ thuật, xem thường hình thức, phải “vô chiêu thắng hữu chiêu”, văn chương là chuyện miêu tả, phát hiện con người chứ không phải là câu chuyện của thuần túy hình thức nghệ thuật. Xin thưa nền văn học của chúng ta lâu nay có chiêu nào đặc sắc, tuyệt chiêu đâu mà cổ vũ vô chiêu với hư chiêu. Xét về trình độ viết, kĩ thuật viết, nền văn học nước nhà đã lạc hậu so với phương Tây hàng nửa thế kỉ. Một vài người cô đơn như Đặng Thân, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Lê Anh Hoài… chỉ là thiểu số. Họ có thể sắp tuyệt chủng rồi. Chúng ta cần cổ vũ và bảo tồn họ chứ không phải cổ vũ và bảo tồn đám đông “vô chiêu” hay “hư chiêu” kia. Văn học là câu chuyện hình thức nghệ thuật chuyển tải nội dung nghệ thuật. Không có hình thức hay sao đòi có nội dung tốt. Muốn làm người tốt thì anh phải là người đã chứ, làm bóng ma không hình dạng sao mà tốt được. Giống như đi thi hoa hậu trước tiên là phải đẹp hình thức, sau đó mới bàn các tiêu chí khác. Hạn chế chủ quan khác của nhà phê bình trẻ cũng cần được chỉ ra đó là tâm lý “ăn chắc mặc bền”, “cẩn tắc vô áy náy” trong khi viết. Họ lựa chọn những giá trị đã ổn định, đối tượng sống tận bên trời Tây, hoặc đã chết xương ra tro từ lâu nhằm thỏa thuê viết. Bởi vì viết về đối tượng đương đại, đang sống, đang vận động, chưa định hình và ổn định về mặt giá trị cũng như đường hướng sáng tác, rõ ràng tiềm chứa nhiều nguy cơ nguy hiểm.

Muốn giải quyết những giới hạn chủ quan và khách quan nói trên của cả sáng tác và phê bình trẻ, tôi nghĩ chúng ta phải có hành động từ nhiều phía. Về phía sáng tạo, các nhà văn trẻ cần tích cực nâng cao tầm tư duy hệ hình nghệ thuật, cập nhật những lí thuyết, trào lưu mới mẻ đương đại trên thế giới. Họ cũng cần biết PR sách của bản thân, tự giới thiệu mình với những kênh xuất bản, phát hành lớn, toàn quốc, đặc biệt là các thiết chế kinh doanh trên mạng đang rất bùng nổ hiện nay.

Từ phía phê bình trẻ, rất cần sự quan tâm đến những cây bút sáng tạo mới, trẻ tuổi. Họ cần dũng cảm thực hiện thiên chức phát hiện, định hướng và làm bệ đỡ cho sáng tác, hơn là chỉ phê bình bốc thơm, phê bình cánh hẩu, phê bình lăng xê, hoặc rút lui vào tháp ngà kinh điển. Từ phía các cơ quan lãnh đạo, quản lí văn nghệ, cần tạo ra những quỹ hỗ trợ sáng tạo trẻ, nhiều sân chơi, giải thưởng, cuộc thi cho phê bình trẻ và sáng tạo trẻ. Từ đó kịp thời động viên cho người trẻ tuổi làm văn chương. Tôi nghĩ, một nền văn chương công chính và tương lai của văn học Việt Nam nằm cả ở sự nghiệp ấy.

--------

Tên bài viết do Vannghe điện tử đặt

Nguồn Van.vn

Quê hương tôi - Thơ Lương Cẩm Quyên

Quê hương tôi - Thơ Lương Cẩm Quyên

Baovannghe.vn- Quê hương nuôi tôi từ nắm xôi/ Mẹ gói trong khăn, cha gùi qua dốc núi/ Tiếng ru thầm, lưng trời gió nổi
Lẫn - Thơ Lê Tuyết Lan

Lẫn - Thơ Lê Tuyết Lan

Baovannghe.vn- Lẫn vào ngày chẳng đặt tên/ Tầng tầng ảo ảnh sấm rền cơn mơ
Tóc thề. Truyện ngắn của Lương Ky

Tóc thề. Truyện ngắn của Lương Ky

Baovannghe.vn - Chị Mai nóng lòng ngóng ra đường. Xe ô tô, xe máy... xuôi ngược luôn nhưng chị chỉ để ý đến xe khách ngược. Từ sáng có cả chục chiếc sao chưa thấy cái nào dừng.
Vẫn không quên ngọn lửa - Thơ Đoàn Xuân Hòa

Vẫn không quên ngọn lửa - Thơ Đoàn Xuân Hòa

Baovannghe.vn- Anh bỗng sợ ngày/ tín phiếu tình yêu kẻ mạo danh nào cuỗm mất.
Chúng ta. Truyện ngắn của Juan Gabriel Vásquez

Chúng ta. Truyện ngắn của Juan Gabriel Vásquez

Baovannghe.vn-...Ngày thứ ba sau khi hắn biến mất, mạng xã hội như những tay thám tử kì cựu đã xác nhận nghi vấn tồi tệ nhất: Sandoval rời khỏi đất nước...