Chuyên đề

Sóng gió bãi triều. ​​​​​​​Ký của Đàm Quỳnh Ngọc

Đàm Quỳnh Ngọc
Chuyên đề 11:57 | 24/09/2025
Baovannghe.vn - Xóm Nghè (nay thuộc xã Quỳnh Phú, tỉnh Nghệ An) gắn bó với tôi cả tuổi thơ vui buồn, nhọc nhằn đã đi vào tâm khảm, không bao giờ quên.
aa

Vậy mà thời gian chưa xa, tôi về làng, xóm Nghè đã được gọi thành Thọ Phú. Ban đầu dân cư quê tôi chưa quen, lời vào ra không đồng thuận. Nhưng dần dà tên xóm cũ cũng đi vào dĩ vãng, giờ thi thoảng có người nhắc lại cũng chỉ là hoài niệm một thời. Mẹ tôi thường hay nói và nhắc nhở: “Cái gì cũng có cái giá của nó”.

Giông bão thường xảy ra ở biển khơi, nhưng quê tôi, sóng gió lại cồn cào ngay tại bãi triều. Vào mùa lũ, dòng nước từ cửa sông, cửa bể đổ về biển, nước thủy triều dâng cao, ngập tràn cả con đê, công an phải thay nhau đi tuần, qua lại trông chừng các điểm yếu ở đê. Rồi cũng chính các anh gõ kẻng liên hồi, báo động đê sắp vỡ. Lúc ấy việc đầu tiên nghĩ đến là cứu người.

Tiếng khóc như ri của con nít, tiếng kêu cứu hốt hoảng của người già, mấy anh công an trẻ cứ động viên: “bình tĩnh, bình tĩnh, không có gì lo hết. Còn người còn của.” Cứu được người, nhưng dòng nước từ biển đã tràn qua con đê, dâng cao, ngập cả cánh đồng. Không thể cày cấy được nữa, đất đã nhiễm mặn, các bà trong làng đỏ hoe đôi mắt, đứng nhìn cây lúa chết trắng cả cánh đồng khi nắng lên. Biết đến lúc nào thì giải phèn, giải mặn để cứu cánh đồng? Đất oi ỉ, đóng phèn thành váng trên bề mặt, những năm sau cho dù đã được “giải mặn” thì dẫu có cấy lúa cũng không tốt tươi như cánh đồng khác, cơm không ngon. Cánh đồng lúa chiêm không được mượt mà “thẳng cánh cò bay”, “cánh đồng 5 tấn”. Càng nghĩ, càng thương những người nông dân lam lũ, nhọc nhằn, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, mà kết quả nhận về không đáng là bao.

Nhưng, đúng như mẹ tôi thường động viên “trời không lấy hết của ai bao giờ”. Thu nhập từ cánh đồng lúa kém đi, lúc được lúc mất, nhưng trời lại cho những người dân nghèo nơi đây có bãi triều. Gọi là của trời “ban tặng” để động viên nhau, nhưng thực ra, đó là cả một câu chuyện dài đầy mồ hôi, nước mắt của bao người góp công sức giữ gìn mới có.

Người dân đào ngao trên bãi triều.. Ảnh: TGCC
Người dân đào ngao trên bãi triều.. Ảnh: TGCC

Một xã nhỏ (xã Quỳnh Thọ cũ) với hơn 6 ngàn người có nhiều ngành nghề nhỏ lẻ, manh mún hội tụ ở vùng đất có chiều dài bờ biển khoảng gần 3km. Chất lượng cuộc sống thể hiện ngay trên gương mặt của từng người, từng bộ quần áo, từng ngôi nhà thấp cao, chiếc cầu, mảnh vườn, hay tại các ngôi chợ làng. Xã có nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là chế biến hải sản và đi biển. Nói đến nghề đi biển bao giờ cũng nhắc đến đầu tiên là bãi triều. Bãi triều giống như vầng trán của mẹ đại dương. Mẹ tôi nói, bao lần số phận của cái làng này gắn liền với dòng kênh nhà Lê và cửa sông, cửa biển. Bà thường cùng bà con làng xóm kéo nhau ra bãi triều hóng gió, trêu đùa cùng trẻ nhỏ. Khi nước thủy triều đã rút xuống, còn lại bùn lầy, nước xăm xắp cát, bà con dùng cái chét, cái muôi nhỏ, ngồi bệt trên cát cào từng tý cát tìm các loài ngao, ốc… đang ẩn nấp phía dưới. Cứ thế, cứ thế, bãi triều đi vào đời sống hàng chục, hàng trăm năm. Tôi vầy vò với đất, lớn lên như bao đứa trẻ khác, cũng có cây cào ngao dài khoảng 2m được làm bằng thân tre, có đai gỗ buộc vào hông người, dễ dàng kéo lưỡi cào bằng sắt mỏng về phía sau đi giật lùi. Ngày còn ở quê, bà con còn gọi tôi là “o giật lùi” vì chuyên dùng cây cào đi lùi dọc bãi cát để tìm ngao, ốc. Có ngày gánh hai rổ ngao đưa về nhà để bán rồi mua gạo, có những ngày chỉ được vài kg đủ nấu canh trong ngày hôm đó.

Tôi đi học, xa quê, nỗi nhớ đầu tiên là bãi triều, dòng sông, nhất là đoạn chảy qua làng, qua bến, cả tuổi thơ chìm đắm trong phù sa. Có ai giống mình không? Tự thấy lạc lõng trong dòng người nơi đô thị chen chúc, đầy bánh xe lăn tấp nập, ồn ào. Cũng đã vài ba lần có tiếng ai đó gọi mình trong đám đông, “O Đàm có về quê không? Nom o khác đi nhiều rồi”. Chưa bắt kịp câu chuyện thì lời hỏi đó đã bị chìm nghỉm giữa biển người chật chội. Một câu hỏi tình cờ, một lời nói động đến nỗi niềm bao năm đang thổn thức trong lòng. Thế là nỗi nhớ quê, nhớ làng, nhớ dòng sông cứ ùa về như bãi triều lúc trào dâng.

Bãi triều là của chung, nơi dành cho người dân kiếm sống bươn chải, và cũng là nơi của các em nhỏ vui chơi, kiếm tiền lành mạnh. Nhưng rồi, cuộc sống lặng lẽ của dân lành sau bờ đê đâu có mãi được bình yên. Sóng gió đã cuộn lên đe dọa cuộc sống của hàng ngàn người dân chất phác, cam chịu. Trước kia, thiếu thốn đủ điều nhưng dân vẫn thương nhau, chia sẻ ngọt bùi. Bãi triều là “vầng trán”, giờ phải “đau đầu” trước những cơn bão của kinh tế thị trường đang ầm ỉ tràn về hàng ngày. Nhà nhà làm kinh tế, người người làm kinh tế. “Con gà hơn nhau tiếng gáy”, kinh tế đặt lên hàng đầu. Cuộc sống về vật chất có tiến triển hơn, nhưng mối quan hệ giữa con người với con người, anh em ruột thịt, họ hàng, bà con làng xóm bao năm đùm bọc không được như xưa. Ánh mắt nhìn nhau, dò xét, so bì cũng từ kinh tế mà ra. Mảnh đất bãi triều gắn bó máu thịt với nhân dân qua bao đời, trong cơn bão tố của kinh tế thị trường đã không còn được bình yên nữa. Đất bỗng trở thành vàng, kim cương. Bao ánh mắt xa lạ đầy toan tính dòm ngó bãi triều. Cái gì đến sẽ phải đến. Tôi nhớ đầu những năm 2000, vùng đất bãi triều ven biển đang yên ổn bỗng dưng có những người không phải thuộc số dân thổ cư trong xã ra bãi triều đóng cọc, giăng dây, thả các giống ngao xuống để giữ phần đất, định phận rõ ràng, coi là của mình. Không có giấy tờ gì trong tay, nhưng họ tự xưng là chính quyền đã cho thuê đất nuôi ngao có thời hạn hàng chục năm. Họ làm các chòi, canh gác, dân không được xâm phạm vào lãnh thổ đất đã được thuê. Người nuôi ngao hưởng thu hoa lợi từ nghề, còn sát phạt các phương tiện tàu bè của dân qua lại khi va chạm vào bãi ngao đã đăng ký, giăng dây, đóng cọc. Ai vi phạm sẽ bị phạt đến tiền triệu, hàng chục triệu đồng. Luồng lạch là nơi ra vào phải qua bãi triều theo lối rất nhỏ, cho nên các chủ thuyền phải thuê con đò nhỏ làm hoa tiêu hướng dẫn tránh bãi ngao. Va vào những nơi nuôi ngao đã đóng cọc, sẽ bị phạt tiền, phải nghỉ việc, thậm chí tàu hư phải sửa đến hàng trăm triệu đồng. Chỗ bọn trẻ nhảy lò cò, thả diều trước đây cũng đã mọc lên tua tủa các cọc tre nhọn hoắt để giữ phần đất. Có bà già loay hoay đi tới đi lui với cái cào ngao nhưng không biết tìm kiếm ngao ở đâu, đành phải đến xin chủ nuôi cho cào 0,5kg về nấu bát canh. Chủ trả lời lạnh lùng: Bà xúc cát về mà nấu. Nghe thật đau lòng! “Vật chất đã giết chết hết tình cảm giữa con người với nhau cả rồi, mọi người ơi!” – Bà kêu than, đi về, nước mắt rơi lã chã. Tôi nghe kể lại mà nhói ran cả lồng ngực. Biết bao giờ ở cái chốn này, mối quan hệ ứng xử giữa con người với nhau lại được như ngày xưa?

Tôi nhớ, những năm đó, về quê nhà, nghe ngư dân than vãn mà ăn bữa cơm không ngon, bát canh không ngọt, chỉ thấy đắng. Những nụ cười của dân quê chào hỏi lúc gặp gỡ bỗng thấy không vui, nhìn mà muốn khóc. Dân nghèo không có nơi cào con ngao, con dắt. Trẻ nhỏ không có chỗ vui đùa, kiếm những đồng tiền nho nhỏ như ngày xưa. Chúng vốn ít lời không thích kể lể, nhưng buồn ngơ ngác. Không khí cuộc sống lặng lẽ, buồn chán. Nhiều chủ thuyền lâm vào cảnh nợ nần. Không ít lần tại bãi triều xảy ra chuyện xô xát, gây mất trật tự an ninh. Màu áo xanh của các chú công an không thể vắng hàng ngày, nếu không sẽ có chuyện. Lực lượng công an đã xử lý ổn nhiều vụ xung đột, va chạm, mâu thuẫn trong dân.

Dân tình không chịu được cảnh mất quyền tự do ra biển, nên đồng lòng, đồng tâm hiệp lực đứng lên viết đơn đòi lại bãi triều. Đi kiện là một việc nhọc nhằn, cơ cực và tốn kém, bỏ công, bỏ của và thời gian mà chưa chắc đã đạt được kết quả như ý muốn. Phải luôn tỉnh táo và dũng cảm, biết đâu từ phía bị tố cáo sẽ phản ứng, chống trả. Mệt mỏi lắm!

Tiếng kêu than của người dân nghèo ở quê như xé lòng. Đất là máu của người nông dân. Mất đất, mất biển thì người dân lấy gì mà sống? Bãi triều là của thiên nhiên, của chung, nơi tắm táp và chia vui. Đã nghèo lại càng nghèo hơn, rơi vào cảnh cùng cực khó khăn, chỉ biết nhìn vào cánh đồng muối và một ít hoa màu. Sản phẩm của diêm dân rất rẻ, như cho, hai hoặc ba ngàn đồng một kg muối khi vừa thu hoạch. Chở muối đi bán rong, đưa đến tận nhà thì cũng chỉ 5.000 đồng/ kg. Người nhanh nhẹn có ít vốn liếng buôn bán chỉ đếm trên đầu ngón tay. Túng phải tính, tất cả thanh niên trong xóm, trong làng dần dần thoát ly đi xuất khẩu lao động, hay xin vào công ty, lo toan cuộc sống cho mình. Người già, em nhỏ, đàn bà chân yếu tay mềm và một số người khác không thể đi xa thì cố bám quê mà sống. Bãi triều của chung bỗng dần dà trở thành sở hữu riêng của một số người. Bãi phi lao xanh tốt chắn gió, chắn sóng giờ cũng ko còn. Vì sao lại như vậy?

O Hoan, tên đầy đủ là Lê Quỳnh Hoan, người trong xã, luôn tích cực vì việc chung, tích cực đấu tranh đòi trả lại bãi triều cho toàn dân. Mỗi lần tôi về quê, o Hoan đều gặp gỡ trao đổi, chia sẻ về vụ nuôi ngao lấn hết đất của dân mà rơi nước mắt. Vụ việc này kéo dài đã nhiều năm nhưng chưa dứt điểm được. Dân khổ vẫn hoàn khổ, mất cả nguồn sinh nhai, đến việc đi tắm biển cũng bị chủ hộ nuôi ngao đuổi đánh. Đỉnh điểm nhất là từ năm 2017 đến 2019, lực lượng công an không lúc nào vắng bóng nơi đây. Trong khoảng vài năm đó, o Hoan và nhiều người mang cả tập đơn lên huyện, lên tỉnh rất nhiều lần, bỏ cả công việc kinh doanh ở cửa hàng, thậm chí còn bị dọa đánh đập. Người dân quê có đòi hỏi gì đâu, cũng không gây rắc rối quá đáng gì, chỉ cần trả lại lối đi ra biển và bãi triều để kiếm sống, vui chơi, tắm táp. Chỉ thế thôi mà gian nan vô cùng. Ai mà hiểu được lòng người, lòng tham? Trời không thương người nghèo thật sao?

Và rồi cuộc họp cần phải có đã diễn ra. Hôm ấy, công an về nhiều và đến sớm để bảo vệ trật tự cho dân được bộc bạch hết tâm tư, nguyện vọng. O Hoan kể, tại cuộc họp, người dân phát biểu rất nhiều, phải đến gần 50 ý kiến. Hôm ấy dân mạnh mẽ, thay nhau phát biểu, tố cáo chủ nuôi ngao cậy quyền thế, ức hiếp kẻ yếu. Nhiều người có mặt đã khóc khi cháu Trần Thị Mùi xóm Thọ Thắng phát biểu. Cháu Mùi là học sinh lớp 7, đang đi học, mẹ đi cào ngao phải ra nơi xa bờ, không may bị chết đuối. Bố cháu bệnh tật, còn em đang học, xin các cấp chính quyền giải thể bãi ngao để cho các cháu và các ông bà được ra biển kiếm sống hàng ngày, không bị các chủ thuê đất chèn ép, ức hiếp nữa. Cháu nói rồi khóc rưng rức, bao người khóc theo. Gay nhất là lúc biểu quyết lấy ý kiến của toàn dân về vấn đề có nên dừng cho thuê bãi triều hay không, vẫn có người ngăn cản không cho làm. Đôi co mãi, cuối cùng có công an bảo vệ, nhân dân cứng rắn hơn, 100% đồng lòng dừng vùng bãi triều đã cho thuê. Cuộc họp tạm ổn thỏa, không có chuyện xô xát, cãi vã, xung đột.

Những ngày sau đó, o Hoan và nhiều người tiếp tục nộp đơn kiện, tố cáo về thái độ, ứng xử của những người thuê đất nuôi ngao, gây bất bình, mất đoàn kết trong khu vực. Các lãnh đạo tỉnh cũng nhắc nhở các cơ quan chức năng về việc bảo vệ quyền lợi của dân. Nhớ nhất là sự quan tâm sát sao chỉ đạo của ông Nguyễn Hữu Cầu – lúc ấy là Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An. Hình ảnh màu áo xanh của lực lượng công an trong những năm đó đã thành quen thuộc với dân nghèo. Cuối năm 2019, bãi triều trở lại là của dân. Đó là một ngày vui như hội.

Vậy là, xã nhỏ quê tôi đã trải qua bao nhiêu biến động, bao nhiêu thay đổi, thăng trầm từ tên đất, tên làng cho tới việc tách, sáp nhập. Chỉ mong sao cho cuộc sống nơi đây sẽ luôn bình yên và ngày một tốt đẹp hơn.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.