Sau hơn nửa thế kỷ, những ca khúc được viết trong thời chiến của người nhạc sĩ này vẫn vang lên không ngừng, khuấy động cảm xúc người nghe. Những bài ca ấy không chỉ hay vì giai điệu đẹp, lời hát lắng đọng mà còn ở tính chân thực, bởi Trần Tiến là người đã đi vào miền khói lửa, đã nhìn, quan sát và đã chiêm nghiệm.
Nổi tiếng với hình thức du ca và hình ảnh của một nhạc sĩ phong trần, theo nhà thơ Phạm Tiến Duật, có thể chia “cuộc đời du ca” của Trần Tiến thành 3 mảng (theo hồi kí Ngẫu hứng). Trong đó “du ca đồng nội” với những Giấc mơ Chapi, Tiếng trống Paranưng, Mặt trời bé con... và “du ca tình yêu” của Tóc gió thôi bay, Tùy hứng qua cầu, Chị tôi... có thể nói là được biết đến nhiều nhất. Trong khi đó mảng “du ca chinh chiến” lại ít biết hơn, nhưng dường như là những ký ức quan trọng nhất trong cuộc đời ông. Năm 2007, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60, Trần Tiến ra album Có một thời như thế gồm 11 ca khúc được sáng tác vào giai đoạn này. Ở bài Thanh niên ra tiền tuyến mở đầu đĩa nhạc ông đã nói rằng: “Đây là bài hát không hề có nốt nhạc vì khi ấy, người viết chưa hề biết viết”.
|
Theo đó, Trần Tiến là người lính Trường Sơn đã có mặt tại tuyến lửa Quảng Bình - Vĩnh Linh trong những ngày chiến tranh ác liệt nhất. Lúc này, TP. Hà Nội thành lập đoàn hát biểu diễn phục vụ những người con thủ đô đang bám trụ ở “cung đường tử thần”. Nhớ lại bản thân ở giai đoạn ấy, Trần Tiến tự trào với tên “Trần Lùi” và nói Thanh niên ra tiền tuyến ra mắt vào năm 1967 là một sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn. Nó là ca khúc kêu gọi những người trẻ tạm xa quê hương để vào chiến trường, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vì vậy mới có câu: Vì tiền tuyến ra đi, quyết mang về chiến thắng/ Vì Tổ quốc thân yêu, chúng ta mau hành quân/ Đi bạn ơi, đi bạn ơi… Ca khúc nhanh chóng đoạt giải A cuộc thi Tiếng hát át tiếng bom do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức. Vậy là năm 20 tuổi Trần Tiến đã “một phát ăn ngay” với bài hát đầu tiên của mình.
Sau thành công này, ông tiếp tục đến chiến trường Nam Lào cùng nhạc sĩ Đỗ Nhuận để cùng sống, cùng thở với những người lính tình nguyện. Ở đây ông có một ca khúc cũng nổi tiếng khác là Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp rất độc đáo. Có thể nói ngay quãng đầu sáng tác, Trần Tiến đã rất ý thức về tính bản địa, từ đó mang những âm hưởng địa phương rất riêng vào các ca khúc sẽ còn nối dài cho đến sau này, như ở Giấc mơ Chapi, Chuyện tình thảo nguyên, Mưa bay tháp cổ... Ông nói: “Trong bộ áo lính tình nguyện rộng thùng thình, chúng tôi nhảy múa, hát ca và bập bẹ tỏ tình bằng tiếng người bản xứ. Chiến tranh như chưa bao giờ xảy ra”. Ông hài hước kể mình suýt chút nữa đã trở thành rể Lào khi được công chúa - con của Hoàng thân Souphanouvong - đặt cho tên Lào là Xổm bum, nghĩa là hạnh phúc vĩnh viễn, nhưng vì lúc ấy còn trẻ quá chưa biết yêu nên đã bỏ lỡ.
Ở chiến trường, ông đã chứng kiến cả thương tật lẫn cái chết. Có những đoàn đi cùng ông rồi hy sinh quá nửa, và ngay cả ông cũng từng suýt mất mạng vì sốt rét rừng ở Trường Sơn. Ông kể trong một lần đang biểu diễn, khi hát đến nửa chương trình thì mình ngã gục. Lúc ấy bệnh xá không đủ thuốc thang, ký ninh là thứ bám víu duy nhất, cố sống giữa rừng thăm thẳm. Trong hồi ký Ngẫu hứng, ông cũng nhớ một lần khác suýt chút nữa thì bị vứt xuống hố chôn vì tưởng đã qua đời lúc bị sốt rét. Nhưng “có cậu y tá yêu nhạc anh, thương anh, nên không nỡ chôn. Trời chưa cho chết! Không còn gì trên người, anh cứ đi, đi không được thì bò, đuổi theo đơn vị. Đường giao liên mất dấu vì bom. Anh lạc vào rừng đầy bom nổ chậm, vậy mà không chết! Bò đến được ánh đèn rất xa, nơi có con người. Té ra một trạm của lính ta. Anh gục xuống và thiếp đi. Không biết bao lâu tỉnh dậy, thấy mình vẫn nằm trước cửa hầm”. Ông kể phe ta tưởng ông là do thám phe địch nên phải đến khi khai báo “Anh là Trần Tiến, tác giả bài ca Thanh niên ra tiền tuyến đây!” và bị bắt hát thì mới được cứu.
![]() |
| rên đường sang Sầm Nưa (nhạc sĩ Trần Tiến ở vị trí thứ ba) |
Không những thế, cả ông, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Nguyễn Văn Tý... đều bị mất một bên tai khi bom nổ lúc đang trú trong hang ở Quảng Bình. Cũng từ đó, ông nghiệm ra rằng “âm nhạc là trong tim chứ không phải nghe bằng tai”. Nhìn lại khoảng thời gian đó, ông nói: “Sống trong hòa bình và được thừa hưởng tất cả những gì cha ông để lại mới thấy mình quá hạnh phúc để được sinh ra vào thời điểm này”. Trong gia tài sáng tác của Trần Tiến cũng có những ca khúc đặc biệt, như chỉ có duy nhất một bài mà ông phổ thơ - Tớ là Zin ba cầu từ Phạm Tiến Duật. Ông kể Zin ba cầu là những chiếc xe mạnh nhất của Nga, có thể kéo pháo và rất quý giá. Thời đấy nó cũng bị mất cửa như Bài thơ về những tiểu đội xe không kính vậy. Để rồi từ Nam Lào và Khu Bốn, chiến tranh Biên giới phía Bắc trên dãy Trường Sơn, dưới chân thành Quảng Trị ông lại thấy đâu đâu cũng xanh màu áo lính, đỏ màu máu lửa và trắng xóa bia mộ... Chính những anh hùng không tên nằm xuống với nụ cười tinh khôi và những mối tình để lại. Điệp khúc tình yêu đã được viết ra với những chữ “nhớ” giằng xé và vang vọng mãi như thế.
Bên cạnh những bài đầy tinh thần lúc chiến tranh ấy, quãng “du ca chinh chiến” của Trần Tiến cũng đặc biệt vì có những bài hầu như rất vắng lặng, mang những cảm xúc cá nhân và rất riêng tư. Vết chân tròn trên cát là một ví dụ. Ông kể sau khi thế hệ đi trước đã hoàn thành “nhiệm vụ chiến sĩ” trong âm nhạc với những tiếng hát trước nòng súng, thì thế hệ sau bắt đầu cần tiếng hát của con người phía sau nòng súng. Sau khi Cát Vận - Trưởng ban Ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam lúc ấy yêu cầu các nhạc sĩ trẻ sáng tác cho ngày Thương binh Liệt sĩ 27.7, trong một dịp tới vùng biển cát trắng Thái Bình, qua lời kể của bà mẹ già nơi mình đóng quân, câu chuyện về một người thương binh bị cụt chân trở về từ chiến trường hàng ngày đến trường để dạy học, dạy hát cho các em nhỏ đã đến với ông.
Trần Tiến nhớ lại: “Bà dặn tôi hãy dậy sớm, sẽ thấy con đường cát chỉ có dấu một bàn chân độc hành. Lần theo dấu vết ấy, tôi sẽ tìm được nơi anh dạy trẻ hát trước giờ vào học. Và chính trong buổi sớm giữa làng biển hoang sơ ấy, nhìn dấu chấm phẩy của vết nạng cô độc đi trong cuộc đời, tôi đã nhận ra ý nghĩa cao thượng và nhân văn của một số phận. Trên bầu trời có những ngôi sao đang sáng, thực ra là đã chết từ lâu. Nhưng ánh sáng bây giờ mới tới được Trái Đất. Trong cuộc đời có những con người hy sinh thầm lặng cho người khác, không chỉ là người lính. Một người mẹ, một người chị, một người quét rác nào đó đã sống đẹp như những ngôi sao ta chưa nhìn thấy ánh sáng. Những ngôi sao không ánh sáng, những ngọn núi không tên, những làng quê không nổi tiếng và những cuộc đời lặng lẽ, không ồn ào là lý do để tôi sáng tác”.
Vết chân tròn trên cát mang thân phận “chìm nổi”, “long đong” từ khi ra đời nhưng đến hôm nay vẫn được vang lên không ngừng. Đúng như Trần Tiến từng nói: “Không có chữ ‘nghệ thuật vị nhân sinh hay vị nghệ thuật’ đâu. Với ông, chỉ có một thứ nghệ thuật duy nhất thôi: Nghệ thuật của trái tim trần trụi. Nghệ thuật không dành cho khối óc, cho chính trị hay những âm mưu mượn nghệ thuật làm chuyện gì khác”, cũng như “Người nghệ sĩ đích thực phải viết bằng trái tim. Đôi khi trái tim sai lầm, chuyện đó bình thường. Vì... nó có phải là óc đâu. Viết bằng óc mới kinh tởm”. Và có thể cũng vì điều ấy mà những bài “du ca chinh chiến” của Trần Tiến đã băng qua thời gian, để lại những dư vị đặc biệt mỗi khi câu hát Vết chân tròn vẫn đi về trên con đường mòn cát trắng quê tôi… cất lên.