Cũng phải có lí do thế nào mà 70 tuổi cựu chiến binh Phạm Quang Hải mới làm nhà chứ nhỉ?
Những năm đánh Mỹ vợ chồng họ cùng ở một chiến trường. Anh ở đại đội 2 tiểu đoàn 923, chị làm anh nuôi đoàn bộ, đoàn chuyên gia quân tình nguyện Việt Nam tại khu vực Sầm Nưa Thượng Lào. Khi đất nước thống nhất cuối năm 1975 họ tổ chức đám cưới, nhận thiếp mời không ai là không ngỡ ngàng, đúng là mối tình của hai điệp viên siêu hạng. Nhưng về chung một mái nhà đã hơn chục năm họ vẫn chưa có con. Thế là họ suy nghĩ mông lung, do ăn ở nhiều năm ở nơi rừng thiêng nước độc, ảnh hưởng của núi đá, khí hậu khắc nghiệt mưa dòng sáu tháng, muỗi vắt nhiều vô kể, thức ăn chủ yếu là măng chua thịt hộp, mùa khô ngày nắng hanh như thiêu như đốt nhưng núi đá lạnh rất khó đổ mồ hôi, đêm về lạnh thấu xương nhìn ai cũng tai tái vì sốt rét? Bị sốt rét phải tiêm quy nin, phải uống thuốc kí ninh đắng như mật cá mè? Sốt rét, một căn bệnh quái lạ, rét rung giường đắp bao nhiêu chăn cũng thiếu mà thân nhiệt lại sốt cao tiêu hủy hồng cầu ghê gớm nên dân Lào rất khó sinh đẻ… nên ai bảo ở đâu có thuốc hay là họ lại đèo nhau đi cầu cạnh. Cuối cùng thì vận may cũng đến, chị sinh liền hai bé một gái một trai. Mừng nhưng lại lo không biết con mình mai sau có được bình thường hay không bởi đã có người đồng đội sinh hai con khỏe mạnh đến năm chúng 15, 16 tuổi thì trở bệnh, người cứ mềm đi vài năm sau thì mất. Đấy là lí do anh muộn làm nhà là như vậy.
![]() |
Minh họa Vũ Đình Tuấn |
Cuối năm 1974, tình hình chiến trường B rất ác liệt thì ở chiến trường C lại vô cùng thuận lợi, hiệp định hòa bình, hòa hợp dân tộc giữa hai bên ở Lào được nghiêm chỉnh chấp hành, Chính phủ cách mạng đã chuyển về thủ đô Viên Chăn, lãnh đạo đoàn chuyên gia quân tình nguyện cũng chuyển theo về đó, tiểu đoàn bộ binh 923 và một đại đội pháo sẽ rút về nước. Trước khi về, các đơn vị tiến hành nhiệm vụ cất bốc hài cốt liệt sĩ đưa về nước. Đảng viên Phạm Quang Hải là Phó ban quy tập của đại đội 2, anh nhận hồ sơ và ghi chép đầy đủ tỉ mỉ kể cả vẽ sơ đồ vào sổ tay từng phần mộ, từng khu mộ. Trong vòng ba tháng đại đội 2 quy tập được 257 bộ hài cốt hi sinh từ năm 1967 đến cuối năm 1973 ở khu vực Mường Hiềm đưa về nước còn mười ba mộ không xử lí được phải quy tập lại về hai nghĩa trang Huớ Mường và Na Piêng, riêng trường hợp của Nguyễn Văn Thuần nằm ở hang Hai Cửa mới hi sinh bốn tháng để nguyên. Cái tên hang Hai Cửa do Hải đặt cho để làm dấu bởi hang đá nằm trên cao cách mặt nước sông Nậm Khao khoảng mười mét, hang có hai cái cửa vào nên anh đặt thế cho dễ nhớ.
Người lính chiến nào cũng nhiều kỉ niệm, riêng anh còn phong phú hơn nhiều. Nhiều chuỗi đêm không ngủ anh lại mang nhật kí ra đọc mà lòng chát chúa buồn vui. Hủa Phăn là tỉnh kết nghĩa với tỉnh Bắc Ninh. Qua một doanh nghiệp làm ăn bên đó họ đã liên hệ được với ban chính sách tỉnh đội, hướng dẫn anh làm các thủ tục, hứa sẵn sàng giúp đỡ cho anh sang đi tìm đồng đội. Trước khi ra quân Hải đã lặn lội đi một số nơi gặp thân nhân các gia đình liệt sĩ, đa số họ không tin, về Tuyên Quang gặp gia đình anh Thuần. Bố mẹ liệt sĩ Thuần đều đã qua đời, Hải trao đổi với người em của Thuần, cậu em tỏ vẻ hoài nghi nên Hải đành trở về đi một mình. Từ khi khai móng làm nhà, Hải luôn gặp ác mộng. Lần một Thuần về, đi chân giả chỉ mặt Hải trách móc: “Chú là thằng nuốt lời, thất hứa với đồng đội.” Mặt Thuần đỏ tưng bừng mắng nhiếc thậm tệ. Lần hai Thuần về, tóc bạc phơ, người lạnh toát ôm chặt lấy Hải khóc như mưa và nói thẳng: “Mày chỉ lo cho gia đình vợ con mày thôi, để tao nằm đơn độc ở chốn rừng xa không thèm để ý.” Nhiều đêm vợ chồng Hải ôn lại những kỉ niệm chiến trường, anh động viên vợ, ngày 27 tháng 7 hàng năm làm giỗ cho cả mười ba người. Trong lòng Hải bất an, anh quyết định dừng làm nhà, một mình cũng lên đường. Vợ anh lại nước mắt chứa chan tiễn chồng lên xe đi về nơi núi rừng năm xưa xa tít tắp. Liệu anh đi có được an toàn? Có thực hiện được ước mơ? Ngày xưa cả đơn vị lội suối xuyên rừng bây giờ có một mình anh thì đi thế nào? Theo chỉ dẫn anh sẽ đi xe khách từ bến xe Nước Ngầm đi Sầm Nưa, đến cửa khẩu Na Mèo sẽ có xe của tỉnh đội Hùa Phăn chờ đón. Các cán bộ tỉnh đội Hùa Phăn đa số là những sĩ quan đã đào tạo ở Việt Nam nên khá thuận lợi. Ngày đầu suôn sẻ, lãnh đạo tỉnh đội đón tiếp và chiêu đãi rộn ràng, họ phân công Trung tá Bun Phăn, Trưởng phòng tìm kiếm tỉnh đội kiêm phiên dịch và lái xe đưa anh đi. Ở Lào không có cấp xã, tỉnh, huyện gọi điện lệnh thẳng xuống thôn bản, họ báo trước tình hình, nhờ thổ dân giúp đỡ khi đoàn đến. Sau khi làm việc và lập trình về ba nơi như sổ tay anh đã báo cáo, Hải xin đi thăm bản Sao trước, ở đó có Bun Thong, một cậu bé đã được Hải và Bảo cứu sống khi ấy mới mười tuổi. Đó là vào mùa xuân năm 1974, trên đường đi lấy gạo về đến bên nương lúa nghe có tiếng vọng xa xa. Hai người chia hai hướng tiếp cận tiếng kêu thì một cậu bé chừng tám tuổi ngồi ỉu xìu bên cậu bé lớn hơn trên đầu nhòe máu khô đang thoi thóp. Chuyện là mùa măng hai anh em nó đi săn gấu, chúng chia nhau về mỗi hướng, thằng em thấy cái đầu đen nhấp nhô cạnh bụi tre tưởng gấu đã bắn nhầm vào anh. Đạn súng kíp, vết thương ở cổ đã khô máu, ruồi đã vào đẻ trứng. Hai người băng bó nhai gạo mớm cho hai đứa lấy sức rồi thay nhau cõng nó về quân y tiểu đoàn. Thằng bé được cứu sống, bố mẹ nó đã về đơn vị đón con và cảm ơn nên anh muốn về đó thăm nó trước. Mường Hàm đổi mới nhiều, nhìn bọn trẻ đạp xe đi học ấm áp như ở quê nhà. Dân bản nghe tin cựu tha hán (bộ đội) Việt Nam từng chiến đấu và từng cứu sống Bun Thong nay lại sang tìm hài cốt đồng đội thì kéo nhau về nhà Bun Thong không thiếu một ai. Những tiếng chào “Săm-bai-bò” thân thương quá đỗi. Bun Thong đã thành ông già, tuy ngẩn ngơ nhưng may mắn có vợ, con và cháu. Nhiều người già còn nhắc những kỉ niệm bộ đội Việt Nam chữa bệnh cho dân, cho thuốc chữa bên kháy (sốt rét) và họ nhớ “tha hán” Hải hát rất hay cả bài Việt Nam và bài hát Lào và múa lăm vông cũng đẹp. Sau khi nghe phiên dịch giới thiệu lí do bộ đội Hải trở lại chiến trường thì có cụ già bảo trên rừng có nhiều hài cốt tha hán Việt Nam lộ thiên. Đúng là câu chuyện chiến tranh đất đai này còn ẩn giấu nhiều điều bất ngờ. Hải nhờ cụ đưa đi. Sự thật là trên đồi thông có những đôi giày, quần áo lòi ra sau mưa. Đó là câu chuyện vào mùa đông năm 1970, một đại đội đặc công của ta tiến đánh sân bay Tam Na Khằng, họ mới tập kích ở vòng ngoài thì bị lộ, địch bắn cối pháo xối xả, cả đại đội hi sinh, sau chúng dùng máy ủi vùi lấp sơ sài, giờ cây đã mọc thành rừng. Hải trở về tỉnh đội báo cáo tình hình hài cốt lộ thiên ở bản Sao rồi anh dẫn đội quân quy tập của tỉnh đội Thanh Hóa bàn giao hiện trường, đội quy tập đã dễ dàng tìm được ba mươi nhăm người. Một tháng trôi qua, anh phải quay về chuẩn bị để sang lần hai. Lần hai anh mời thêm ba người gồm Vũ Thế Thi, Đinh Văn Nội nguyên là đồng đội đoàn chuyên gia và Ngô Sĩ Khả. Lần này sự chuẩn bị kĩ càng hơn, vui hơn.
Đó là tháng 10 năm 2022 sau đúng năm mươi năm họ có mặt ở chiến trường Lào (10/1972-10/2022), kinh tế Lào đang khó khăn, lạm phát cao chưa từng có nên đoàn phải tự túc toàn phần kể cả tiền xăng, tiền ăn cho lái xe. Sau một tuần làm việc, nhóm quy tập của Phạm Quang Hải được tỉnh đội bạn và nhân dân Lào giúp đỡ tận tình họ đã dễ dàng bàn giao cho đội quy tập đủ 13 mộ phần. Hải mang cái bi đông của Thuần về làm kỉ niệm. Có lẽ sơ đồ trận địa năm xưa được Phạm Quang Hải thuộc như lòng bàn tay cộng sự chỉ đường dẫn lối vô hình nào đó mà mọi sự tưởng vô cùng phức tạp lại diễn ra quá đỗi nhẹ nhàng. Chỉ có một sự cố vui vui đó là tại nghĩa trang Huớ Mường loanh quanh mất ba ngày mới xác định được vị trí nghĩa trang bởi lẽ địa điểm nơi chôn cất từ năm 1973 đến nay bản chuyển sang bên này sông, xa nơi cắm bản ban đầu đến cả ngày đường nên mất phương hướng, lệch vị trí. Đang bi quan thì gặp cụ chăn bò, hỏi ra mới biết là như thế và tìm được dễ dàng.
Hình ảnh cuộc chiến đầy hi sinh gian khổ trước đó 50 năm luôn hiện về trong anh, đặc biệt là trận cuối cùng ở ngã ba sông Nậm Khao. Nậm Khao là dòng sông chảy ngược về phía Tây, ngã ba là nơi hợp lưu của hai dòng sông Nậm Khan và Nậm Khao. Tại nơi hợp lưu tạo thành cánh bãi bồi khá rộng và phẳng, bờ bên kia sông là đồn địch, bên này là bản của dân. Bọn địch suốt ngày bỏ đồn về bản ăn nhậu chơi bời, chúng cho lắp đèn cao áp, quanh bản quây hàng rào thép gai. Quân ta đột kích bất ngờ khi bọn địch đang say sưa, tiêu diệt mấy chục tên, số sống sót liều nhảy xuống sông tháo thân. Quân ta cũng nhanh chóng rút lui để bảo toàn. Trên đường thu quân thì Thuần bị trúng mìn cắt cụt chân phải, bụng bị bay mảng thịt ruột lòi ra Thuần chỉ kịp nói với Hải và Lâm một câu rồi đi:
-Hải ơi! Nhớ về Na Hang Tuyên Quang quê tao, báo cho cha mẹ tao biết nhé. Nhớ chôn tao và đánh dấu để bố mẹ tao sẽ đến đưa tao về.
Hải bắn hai phát chỉ thiên, báo hiệu cấp cứu. Có lẽ đồng đội đã tiến xa không có tiếng súng bắn đáp lại. Hải và Lâm vừa mở đường vừa cõng xác Thuần lên đồi. Đi dọc sông vừa nhanh vừa nhẹ nhưng dễ gặp phỉ nguy hiểm. Họ đi gần một ngày đến một cái hang đá cheo leo. Hai người dừng lại dùng dao găm đào hố cạnh một cây duối rừng mai táng đồng đội. Lâm là người Tày to khỏe, mắt xếch nhưng ngờ nghệch nên có biệt danh Lâm Tồ. Hải nhỏ người nhưng nhanh như sóc lại bền bỉ dẻo dai, là người Kinh nhưng săn bắn đi rừng rất siêu, Lâm ngược lại, khỏe nhưng không bền, độ dẻo dai, kinh nghiệm đi rừng thua xa Hải. Chôn cất đồng đội xong, Hải vùi cái bi đông đựng nước có dòng chữ Nguyễn Văn Thuần A4, C2, D923 xuống mộ làm dấu. Hải cắn răng tâm sự: Anh Thuần ơi, nay anh đã mồ yên mả đẹp, xin anh phù hộ độ trì cho hai chúng tôi, nếu tôi sống đến ngày hòa bình tôi sẽ về Na Hang quê anh, thăm cha mẹ anh, tôi sẽ đưa họ đi đón anh về... Nói xong Hải nằm vật ra vì lả, Lâm cũng kiệt sức rũ ra như tàu lá héo. Họ ngủ qua đêm, đến lúc tỉnh thì đói, khát, mệt tưởng như không cả đủ sức để mở mắt. Hải vịn cây đứng dậy, anh chặt một đoạn dây rừng lấy nước uống, bẻ mấy cái măng sậy cho Lâm và mình ăn. Họ lê lết đi, nếu đồng đội không đi tìm thì cầm chắc cái chết vì đói và kiệt sức. Hai người đến một cái khe, linh tính mách bảo bờ khe thường có củ mài. Lâm nằm gục xuống nom thê thảm, Hải gắng sức đi dọc khe đi tìm, phát hiện có sợi dây củ mài đã chết khô, anh lần tới gốc, thấy gốc còn tươi. Lợi dụng độ dốc khe suối anh dùng dao bới đất. Đào củ mài là công việc khó khăn vì nó nằm rất sâu, còn đào củ mài bên bờ khe sẽ thuận lợi hơn. Trời đất, Hải đào được củ mài, vừa đào vừa nhai cái vị tinh bột và nước củ mài như thể thuốc tiên, nuốt đến đâu tỉnh ra đến đấy. Anh mang chiến lợi phẩm về cho Lâm thì Lâm đã lả gần như bất tỉnh, môi khô, mắt nhắm nghiền. Hải nhai củ mài mớn cho Lâm, Lâm không mở miệng được anh phải nhổ vào lòng bàn tay, chấm ngón tay bôi lên môi, lên lợi, chân răng cho Lâm, bôi cả vào hai lỗ mũi cho dễ thở, cái môi khô nó mềm dần, Hải nhai tiếp phun vào khoang miệng Lâm lại dùng hai tay dập hàm Lâm lên dập xuống làm nhai nhân tạo một lúc thì cái môi mấp máy, con mắt lờ đờ hé ra, sau mấy lần nhai thứ bột mát lành mớn cho Lâm, khoảng nửa giờ sau Lâm đã tỉnh. Phải hơn một ngày sau họ lết được một quãng nữa, Hải leo lên cây bắn hai phát chỉ thiên, và sau đó có tiếng súng bắn trả lời, Hải lại bắn tiếp hai phát có tính định vị. Hơn hai giờ sau người đơn vị đã tới. Họ hòa lương khô cho hai người ăn, họ bảo đơn vị đã cho người đi tìm và báo cáo lên tiểu đoàn về sự cố mất ba chiến sĩ tiêu biểu.
Diện tích tỉnh Hùa Phăn rất rộng, đầu tỉnh cách cuối tỉnh 240 cây số. Đường quanh co khúc khuỷu liên tục có cua tay áo, cheo leo bên thăm thẳm vực sâu, đi cả trăm cây mới có điểm đổ xăng, nhưng không phải lúc nào xăng cũng có, chúng tôi đã phải chờ hai ngày mới có xăng. Trên đường đi chúng tôi nghỉ nhờ đơn vị bộ đội. Do được báo trước nên bạn tiếp đón chu đáo. Đại úy tiểu đoàn trưởng Ty Sắc từng huấn luyện nhiều năm ở Thanh Hóa, tự đi đào con dúi về làm món tiếp rượu chúng tôi. Đường xa xe rung lắc rất mệt, nhưng đêm ấy chúng tôi ngồi ở hiên nhà ăn đơn vị uống rượu Men Việt Nam với thịt dúi, ăn quả cà gai mọc hoang bên bờ suối và cá suối nướng rồi uống trà Thái Nguyên đến khuya mà quên mỏi mệt đường xa. Tôi có cảm tưởng tình cảm Việt - Lào không có ranh giới, lạ lẫm đấy nhưng gặp nhau là hòa đồng ngay. Hôm sau chúng tôi ăn cơm nếp muối vừng đi Mường Lay về hang Hai Cửa. Bản Mường Lay ở ngã ba sông Nậm Khao, là đất giáp ranh giữa hai tỉnh Xiêng Khoảng và Hùa Phăn, nhiều lần cả bộ đội Xiêng Khoảng và bộ đội Hùa Phăn đều muốn giải phóng nhưng không thành. Ban đầu là bốt của lính Thái đóng trên đồi, máy bay địch bay suốt ngày, khi lính Thái về nước bọn phỉ tiếp quản, chúng bỏ bốt xuống bản ăn chơi, dân bản theo địch nên không hợp tác với quân cách mạng. Lần này chính Hải đã đề xuất với đại đội trưởng Lù A Sề dùng bộc phá dây phá hàng rào. Bộc phá được kết nối qua dây cháy chậm cháy chậm vắt qua mỗi lớp. Khi quả bộc phá vòng ngoài phát nổ, cắt đứt lớp dây vòng ngoài thì kích nổ quả hai, cắt đứt lớp dây vòng hai cứ thế đến lớp cuối cùng sẽ có đường vào. Đồng thời cho một tổ chặn lối ra sông là chúng không nối thoát. Trận này ta chuẩn bị kĩ nên toàn thắng, công đầu là của Phạm Quang Hải. Sau làm lễ truy điệu Nguyễn Văn Thuần là lễ kết nạp đảng viên mới Phạm Quang Hải.
Hôm Hải khánh thành nhà mới. Anh vui mừng kể rằng sau hai lần ra quân trở lại chiến trường xưa tìm đồng đội, số hài cốt tìm được vượt 300% dự định ban đầu nên anh rất tự hào, anh rất thoải mái và vui. Không một đồng trợ cấp, không một tấm huy chương của cấp nào cả, chỉ cần các hương hồn liệt sĩ hiểu về anh, các đồng đội ghi nhớ về anh là đủ, anh thấy trong lòng nhẹ nhõm, con gái anh đã có người yêu thương tháng sau là cưới, con trai đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự đã có nơi nhận đi làm, tuy công việc làm nhà phải dừng mấy tháng thì may vật liệu đã giảm giá, giấc ngủ ngon, đêm không giật mình và không còn cơn mơ dữ nào hiện về. Đời người chiến binh như anh không khác chi cổ tích. Chúng tôi đã ghi lại những thước phim, những tấm hình những dòng sông, những mái trường, những bản làng đặc biệt là tình cảm mà nhân dân Lào dành cho bộ đội Việt Nam thì vô cùng đặc biệt. Đất nước Lào tươi đẹp, cơ sở hạ tầng của bạn tiến bộ rất nhiều, thị xã Sầm Nưa khi chúng tôi chia tay năm 1974 mới lèo tèo ba khu thương mại đơn sơ khu người Hoa, khu người Việt và khu người Lào, giờ đã có những cây cầu thép qua sông, những dãy phố nhà bê tông cao tầng na ná như thị trấn bên ta, bản nào cũng có máy xay xát, nhiều nhà chở lúa, ngô bằng xe Toyota bán tải. Dân bản đón tiếp nhiệt tình, nhiều nhà sàn to đẹp, các thiếu nữ rất đẹp tập trung dệt vải cầm hoa chờ sẵn, tôi ghi được bản có nhiều máy cày, máy xay xát và rất nhiều ô tô. Trưởng bản đã thuê cho chúng tôi ba cái thuyền máy, loại thuyền hÌnh con cá, thân dài đuôi tôm. Từ ngã ba sông Nậm Khao phải đi ngược lên mười sáu km mới tới hang Hai Cửa. Mùa đông lòng sông khá hẹp, nhiều chỗ bờ sông sạt lở, cây to đổ chắn dòng khiến nước dâng cao, nước dồn về một dòng hẹp lại, chảy xiết như thác đổ, đúng là lên thác xuống ghềnh người lái phải mắm môi, trợn mắt, vặn người, ga hết cỡ khói mịt mù nhích từng nấc vượt thác đi lên, chúng tôi ngồi thụp xuống, hai tay bám chắc hai bên thành đò có lúc đò nghiêng muốn văng ra, tim thót đến tột cùng. Đầu tôi nghĩ đến tình huống bất ngờ đang lên ghềnh hay xuống thác mà chả may chết máy thì thuyền trôi tự do mình bơi không tài thì cầm chắc cái chết! Đến vị trí tập kết cả đoàn thở phào. Hải đã nhảy xuống bơi vì dòng sông này đã quá quen thuộc với anh. Sông xưa nhiều cá, nhiều ba ba, giờ xuồng máy chạy suốt ngày, xem người dân kéo lưới biết là không có cá. Chúng tôi mở đường leo lên hang Hai Cửa đến bên cây duối dễ dàng tìm ra mộ anh Thuần, hương khói cho anh xong là bàn giao cho đội quy tập để họ lập kế hoạch đưa anh về. Anh Hải nói gì với anh Thuần rất lâu, tôi cũng thầm thì: Anh Thuần. Anh yên tâm nhé, chúng tôi đã về đây là để đưa anh về quê mẹ. Trên đường ra, chúng tôi về thăm nơi ở và làm việc trước đây của đoàn ta, thăm căn cứ cách mạng Viêng Xay của Trung ương cách mạng Lào. Tất cả vẫn còn đây, hang chỉ huy, hang ở của đoàn trưởng Huỳnh Đắc Hương, của đội vệ binh, của các nhân viên, thăm khu ở và làm việc của các lãnh đạo bạn, Đinh Văn Nội là cận vụ kiêm lái xe cho phó đoàn Bế Chu Lang nên anh có rất nhiều kỉ niệm đẹp, nhiều lần tháp tùng lãnh đạo đoàn gặp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, gặp Hoàng thân, vợ Hoàng thân là người Việt nên ông bà tiếp đoàn đoàn Việt Nam rất gần gũi thân mật. Các di tích đều đã sang sửa, trải bê tông đường vào, có nhiều cây bưởi, cây xoài do bộ đội Việt Nam ăn quả gieo hạt mọc lên, có hàng rào bảo vệ, có đèn điện thắp sáng và có cả đội thuyết minh du lịch về địa danh lịch sử.
Cuộc đời này thật nhiều ý nghĩa, những người đồng đội sống chết có nhau thật chí tình. Chí tình như những chiến binh một thời sống chết có nhau, chí tình như tình anh em Việt Nam-Lào.