Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều liên tưởng lịch sử của sự sáng tạo như một dòng sông, nơi thế hệ nước này tiếp thế hệ nước trước “để tạo ra vẻ đẹp huy hoàng của những dòng sông”. Tôi tưởng tượng văn học như một khu rừng, chúng ta là những cái cây.
Khu rừng văn học sau 1975 với những cây đại thụ đã đặt nền móng cho lối viết mới, tạo nên hứng thú trong tiếp nhận: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Phan Huyền Thư, Đỗ Hoàng Diệu, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Ngọc Tư, Trần Dần, Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, Trương Đăng Dung… Ở đó, những giá trị bị che khuất, bị đẩy lùi được trở lại; ở đó những vết thương được thấu cảm và nỗ lực hàn gắn; ở đó những “bệnh tật điển hình” của xã hội được bắt mạch, chạy chữa.
Trong những năm gần đây, sự chiếm lĩnh của những cây viết trẻ - cũng tựa như những cây non đã bắt đầu hấp thụ dưỡng chất của “mặt đất”, nhìn đời bằng “đôi mắt xanh non” (Xuân Diệu), đón nắng gió để vươn cành. Người viết trẻ có một hành trang văn chương tương đối khác: không có nhiều kí ức về chiến tranh, thế hệ đón nhận những luồng văn hóa toàn cầu, trào lưu nghệ thuật mới. Với sự nhạy cảm, những cây bút: Hiền Trang, Lê Quang Trạng, Cao Việt Quỳnh, Minh Anh,… xuất hiện tạo nên bức tranh văn học tươi mới, đa dạng.
![]() |
| Đại biểu tham dự Hội thảo “50 năm văn học Việt Nam từ sau 1975: Góc nhìn của những người viết trẻ”. |
Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ mình từng viết dưới bóng những nỗi sợ, “nhưng là sợ những ông lớn, ông kẹ của thế giới”. Bóng mát của thế hệ đi trước dễ gây ra sự choáng ngợp, mặc cảm nhược tiểu ở những cây bút trẻ. Liệu mình còn gì để viết, khi trong rừng đã có rất nhiều những loài cây?
Sợ nói thật, sợ kiểm duyệt, sợ những mối quan tâm của một người trẻ - những đại dương đen của “ đứa trẻ tổn thương” - trong quan niệm văn chương kinh điển, trong thời đại lên ngôi của công nghệ, có chăng chỉ thuộc về ngoại biên?
Đến đây, tôi cũng mang theo một nỗi sợ, liệu mình sẽ nói gì khi đã có rất nhiều những cây bút gạo cội, chuyên sâu nhận định về 50 năm văn học? Là một giáo viên cấp 3 được tiếp xúc với học sinh chuyên Văn - những em có tố chất văn chương, tôi nhận ra một rào cản trong các em: sợ không nói đúng ý thầy cô khi cảm nhận tác phẩm, sợ không nói đúng ý…tác giả. Nhân đây, học sinh cũng nhờ tôi gửi thắc mắc đến các nhà văn: Liệu những nhà văn có hứng thú với những bài làm văn thời đi học?
Tôi nhớ đến một truyện cực ngắn của nhà văn Kafka, bản dịch của Hoàng Ngọc Tuấn, nguyên văn: “Chúng ta giống như những thân cây vùi trong tuyết. Bề ngoài, chúng nằm trơ ra đó và một cú đẩy nhẹ cũng đủ làm chúng lăn tròn. Không, không làm vậy được đâu, bởi chúng gắn chặt vào mặt đất. Nhưng này, ngay cả điều ấy cũng chỉ là bề ngoài”.
Điều gì sẽ làm nên sự vững chãi của những ngòi bút? Tôi tin, bằng chính ngôn từ, những cây bút trẻ đã vượt qua nỗi sợ. Bằng cách nào đó giữa rất nhiều lựa chọn dễ chịu hơn, người trẻ đã chọn văn chương, bởi ngôn từ có sức hút với chúng ta. Tôi tin, người cây bút trẻ- như những thân cây, sẽ đứng vững giữa giá tuyết bằng nội lực. Nhưng khoan, phải chăng ấy cũng là cái bề ngoài?
Trong hệ sinh thái văn chương ấy, những cây viết trẻ đã vượt qua nỗi sợ bằng nhiều lối đi khác nhau. Có người viết tạo dựng cho mình một vỏ bọc hào nhoáng, nhất là khi có sự hậu thuẫn của truyền thông, khi những trang bìa luôn đẹp hơn nội dung bên trong cuốn sách. Để rồi, như một số sản phẩm âm nhạc hay điện ảnh mang tính thị trường, chạy theo xu thế hiện nay, chỉ thỏa cơn khát trong một thời gian ngắn như sóng nổi rồi tan. Có người viết bắt chước theo bóng những cây cao, bằng sự vay mượn cảm xúc, tự đưa mình vào bóng mát của người khác một cách lộ liễu để rồi “quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu” (Huy Cận). Một chút hậu hiện đại, một chút phương Tây, một chút Nobel,…tạp chất ấy khiến cái cây khó có thể phát triển bình thường. Đọc văn học đương đại, thỉnh thoảng vẫn thấy thấp thoáng dáng dấp của Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân hay trường phái Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư; một số bài thơ làm dáng, làm méo mó ngôn từ mà không gây nên một trải nghiệm thẩm mỹ.
Hơn cả, chúng tôi muốn đọc những tác phẩm đi ra từ những trải nghiệm thật, từ sự trung thực trong ý nghĩ. Chúng ta đừng xem thường những trải nghiệm riêng tư của chính mình, đó nhiều khi là con đường để chạm đến cái nhân loại phổ quát. Từ góc nhìn cá nhân của một người trẻ từng rơi vào khủng hoảng, tôi mong muốn được đọc thêm những tác phẩm văn chương nước nhà về giới mình, về thiết chế vô hình quyết định sự lựa chọn của người nữ, vấn đề lựa chọn làm mẹ đơn thân, vấn đề sinh sản vô tính, cái nhìn nào về phẫu thuật thẩm mỹ, điều gì sau những nổi loạn điên rồ, tự hủy hoại của những cá thể mong manh,…Đọc Ngực và trứng, cuốn tiểu thuyết của nữ nhà văn Nhật Bản Mieko Kawakami, một lối viết đi đến tận cùng trải nghiệm thân thể để chất vấn lại thiên chức người nữ. Khi tiếng nói của những tiểu tự sự được cất lên, chúng tôi thấy mình không cá biệt, lúc ấy văn chương đã cứu một con người.
Nhìn lại khu rừng văn học sau Đổi mới, những tiếng nói sinh thái, hiện sinh, đã được phản ánh, vẫn còn đó nhiều mảnh đất trống, nhiều câu chuyện chờ nhà văn viết ra. Chủ nghĩa cảm thương vốn là truyền thống nhân văn của con người Việt Nam được khởi lên từ truyện truyền kì, thể ngâm khúc, truyện thơ và những truyện ngắn 1930-1945, tinh thần ấy được nối dài trong văn chương đương đại khi nhạy cảm với những tiếng kêu thương. Văn chương còn là gì khác nữa? Một tiếng cười châm biếm đả kích, một diễn ngôn triết học giản dị về thân phận con người, cả tính dự báo cho một hiện thực khả nhiên…văn chương có thể muôn màu hơn khi nhà văn “nghiền ngẫm” nhiều hơn, khi người cầm bút không chỉ là một nhà nhân đạo mà còn là một nhà tư tưởng. Tiếng vọng của những năm tháng ta sống, đã và sẽ đi vào trên những trang viết, về dư chấn tinh thần của một thời đại Covid, trận lũ lịch sử và tình trạng bị xóa đi của con người, sự hợp nhất và di cư trên chính quê hương, cả những chấn thương liên thế hệ thời hậu chiến, khi ấy, phía bên ngoài những bóng cây, luôn có một bầu trời.
Một lần nữa, những cây bút trẻ, bằng nội lực bản thân, bằng dưỡng chất của văn hóa cội nguồn, có thể tự tin đứng vững và tự mình làm một khu rừng. Một khu rừng của riêng mình, vì sao chúng ta không mơ? Bob Dylan trong Diễn từ nhận giải Nobel Văn học đã nói: “Bất cứ ai viết một cuốn sách, một bài thơ, hay một vở kịch ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều có thể mang trong mình mơ ước bí mật ẩn sâu bên trong họ”. Có người đến với văn như nơi bám víu cho tâm hồn, có người tìm đến với trang viết để thực sự được “giải trí”,… Để văn chương thực sự có những bước chuyển mình, phải chăng, người viết cần ý thức nhiều hơn về mục đích sáng tác, thay vì chỉ tìm đến viết lách một cách ngẫu hứng, nhất thời; cần đào sâu, mài giũa tài năng một cách nghiêm túc thay vì chỉ viết văn dựa vào năng khiếu sẵn có. Hoạt động dịch thuật phát triển mở đường cho các cây bút trẻ tìm tòi về lối viết, đổi mới bút pháp. Xuất phát điểm là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà văn Mieko Kawakami đã không ngừng bồi đắp nội lực cho ngòi bút, cô trở thành một nhà nghiên cứu văn học chuyên sâu. Chúng tôi hiểu và chia sẻ với một thực tế, không dễ để vừa sống trọn với văn vừa sống trọn với đời. Một thực tế kéo dài từ thời của văn sĩ Hộ đến nay, nhà văn chưa đủ tự tin để sống bằng nghề văn, chưa sống được bằng nghề văn. Nhìn một cách tích cực, điều đó tạo nên sức cạnh tranh cho mặt hàng đặc biệt mang tên văn chương, để người cầm bút ý thức hơn nữa việc cần phải đổi mới, hấp dẫn hơn, mang sức “chạm” hơn để tác phẩm của mình được độc giả đón đọc, để mình thực sự được hiện hữu giữa văn đàn.
Viết dưới những cái bóng, trong xu hướng văn học toàn cầu hóa, cái bóng nào đang đổ xuống nền văn học Việt Nam? Chúng ta có niềm tin vào thế hệ nhà văn đương đại. Như nhà văn trẻ Hiền Trang, vì ngôn từ là tất cả những gì một người viết có, nên các câu chuyện sẽ tiếp tục được viết ra, những vần thơ sẽ tiếp tục được cất lên, "dù không thể đổ bóng lên ai".
--------------
Bài viết được khai thác từ tham luận Hội thảo “50 năm văn học Việt Nam từ sau 1975: Góc nhìn của những người viết trẻ”.