Diễn đàn lý luận

Nhìn vào thời - để nhìn tác phẩm và người viết

Vũ Đức Anh
Lý luận phê bình 11:17 | 20/11/2025
Baovannghe.vn - Năm nay là năm 2025, hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ khi…nhân vật Chương trong con gái Thuỷ Thần (Nguyễn Huy Thiệp) kết thúc câu chuyện của mình.”Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển...Tôi chưa biết biển... Mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy. Chỉ vài năm nữa đến năm 2000”.
aa

Tôi lớn lên gần như trọn vẹn trong thế kỷ 21, “gần như” là vì có bảy năm còn “dính” lại ở đoạn cuối thế kỷ XX, cái thế kỷ dài và khốc liệt, nhưng bảy năm đó thì hầu như tôi ở một nước khác - nơi tôi sinh ra có những nhà văn lớn của nước Nga. Khi về Việt Nam, tôi về ngay giữa cánh đồng ở quê tôi, nhà tôi vẫn còn một cây bưởi và hãy có cầu ao để giặt chiếu. Tôi nhớ mãi bà tôi kể lại, theo thói quen bên tây, tôi đòi uống coca cola ngay khi về quê, lúc đó coca cola tình cờ cũng đã đi một đường rất xa từ nước Mỹ, xuyên qua lịch sử, để đến hàng giải khát của bà ngoại tôi. Chỗ cầu ao kia, người anh trai con bác tôi đã qua đời vì rơi vào thùng vôi, hồi ấy anh tôi biết làm diều và súng bằng gỗ. Nhưng tôi lớn lên và tận hưởng tuổi trẻ của mình ở thành phố. Sự lớn lên của tôi trùng với những nhịp đi rời xa dần miền quê, nhưng quê tôi còn thay đổi nhanh hơn cả tôi: tôi lúc nào cũng có cảm giác chính quê tôi mới từ biệt tôi để lên thành phố, chứ không phải ngược lại, nên tôi đọc “Thương nhớ đồng quê” của Nguyễn Huy Thiệp rất mê thích, mặc dù nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp nằm ở một thời điểm khác, ồ, nếu đúng ra dường như nó thoát ra khỏi thời điểm - cái thời gian thế tục mà con người đã sa chân xuống, nó là một vùng mênh mông không có thời gian và nằm sát cõi siêu hình.

Lưu Quang Vũ qua đời năm 1988, đây là thời điểm đối với tôi thực sự đã tách chia thời đại trong văn xuôi Việt Nam, chứ không phải năm 1986. Xin hãy thông cảm cho tôi vì cái nhìn của tôi sẽ có thiên kiến: nhưng thiên kiến mới chính là con người. Một số báo văn nghệ thời ấy đưa tiễn Lưu Quang Vũ, ở mặt sau trang báo, một ngôi sao mới xuất hiện: Nguyễn Huy Thiệp. Khoảnh khắc như có tâm linh. Ngôi sao ấy lên nhanh, và thời điểm ngôi sao ấy ở đỉnh, cũng ngắn như những câu văn súc tích của ông. Điều đó gắn liền với ba năm 1987, 1988 và 1989. Thật tình cờ - tôi tin vào sự kỳ quặc của đời sống, nhưng ít tin vào tình cờ - đó cũng là những đoạn mà nhiều nhà văn lớn trên thế giới cũng chuyển động.

Đoạn giao Lưu Quang Vũ - Nguyễn Huy Thiệp ấy, và ba năm lớn ấy của văn chương Việt Nam sau 1975 là điều không lặp lại được nữa. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh vào mấy chi tiết tôi sẽ trình bày bên dưới, hòng để nói về chính thời của mình.

Nhìn vào thời - để nhìn tác phẩm và người viết
Đại biểu tham dự tọa đàm

Để tôi nói cho thật rõ sự khác biệt của hai thời này. Khi nhân vật Việt của Lưu Quang Vũ trong Tôi và chúng ta nhận một xí nghiệp, anh ta đã thay mặt chức giám đốc, và mặc cho các ngăn cản của anh phó giám đốc, để quyết lèo lái cái xí nghiệp đó qua khó khăn để đến thành công. Một nhân vật và một xí nghiệp tương tự xuất hiện trong truyện ngắn Vết trượt của Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có điều nhân vật trưởng biến mất, và lúc này nhân vật phó thắng thế. Xí nghiệp đó cũng thành công về kinh tế, nhưng theo những mẹo mực vô đạo mà ở thời đó người ta không hề nhận ra.

Kể từ đấy trở đi, văn chương bắt đầu vắng đi những anh hùng đích thực, ồ có lẽ dùng từ anh hùng cũng đúng, mà dùng từ trưởng cũng đúng, tức là vắng đi một trật tự con người đã được thiết lập từ thời cổ điển. Cũng kể từ ấy trở đi, trong ba năm kỳ diệu của văn chương Việt, các văn chương bắt đầu thay vì kết luận đã đặt những câu hỏi vô cùng lớn, vô cùng khó trả lời mà còn vang vọng đến mãi về sau. Nguyễn Huy Thiệp sau này sẽ đi đến chỗ Không có vua, tức là một thế giới không có người dẫn đầu. Tôi không có hàm ý gì, chủ yếu là tôi nhớ đến một vở kịch mà Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch - ở chỗ đó người ta đã bắt đầu thấy tương lai của nhân loại sẽ là sự lên ngôi của những kẻ hầu cần thích tung hô nhiều hơn là làm việc, người vốn không phải chịu trách nhiệm và không phải là người dẫn đường bằng toàn bộ trí năng, cảm năng và tinh thần. Tôi nói ở đây ở cả cấp độ con người, ở rất nhiều nơi trong thế giới đương đại, ta thấy một con người có thể chỉ còn làm phó cho phận của họ. Thế giới của Nguyễn Huy Thiệp có quá nhiều người làm phó. Thế giới ấy vắng đi một người dẫn đầu, một người chứng giám, một cái gì đó là hiện hình của trật tự tổng thể mà thỉnh thoảng nó đã xuất hiện lạ lùng tinh khôi trong vài chi tiết, nhất là về thiên nhiên của Nguyễn Huy Thiệp. Và cái trật tự tổng thể khó thấy ấy đã tan vỡ, văng ra các mảnh kính nguy hiểm. Nếu ta muốn nói về cái ác, thì nó nằm ngay ở đây: sự tan vỡ của một tổng thể đạo đức xưa cũ. Quanh tôi có những người tốt, và tôi đảm bảo chín mươi bảy phần trăm người dân quê tôi có những suy nghĩ lành mạnh và tốt đẹp hơn chính tôi rất nhiều, nhưng cái thiện lại không phải là những mảnh vỡ. Và hình như Nguyễn Huy Thiệp nói những người tốt làm khổ nhau vì chính lòng tốt.

Lưu Quang Vũ là người chiêm nghiệm, ông tổng kết tài tình những điều mà ông đã thấy, còn Nguyễn Huy Thiệp là người tiên tri, ông biết trước một số điều, cả hai phóng về hai phía của thời gian những mũi lao lớn, cho nên ba năm 1987 1988 1989 - với riêng tôi - rộng như cả một đời người. Nó giống như nhân vật Quyên trong Thương Nhớ Đồng Quê, nói sao ở đây có ba ngày mà dài mãi như vậy.

Tất nhiên, tôi không viết bài này để công bố nghiên cứu văn học, tôi đã thấy sự buồn chán của nghiên cứu văn học trong chừng hơn mười năm qua. Một người bạn tiến sĩ của tôi mấy năm để làm những đề tài kiểu như “Ngôn ngữ tạo sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”. Tôi không bảo điều đó thì không tốt hay không đẹp, người nào thì việc nấy, người ta cũng cần tấm bằng để mưu sinh, nhưng tôi thấy sự đọc văn chương kiểu như vậy có một cái gì đó rất khổ. Dường như sự đọc, chính chị bạn tiến sĩ của tôi đã nói thế, đã đánh mất tinh thần phiêu lưu. Tinh thần phiêu lưu của sự đọc giống như là căng buồm ra khơi, với một thuỷ thủ đoàn cứng cỏi như tiểu thuyết của Joseph Conrad vĩ đại. Còn sự đọc trong rất nhiều năm nay đã tạo ra một cảm tưởng rằng người ta đã cất những cột buồm và la bàn ấy đi, để thay vào một tấm bản đồ với hải trình cố định và một cuốn sổ tay du lịch. Người ta bàn về sự viết nhiều, chứ không nói về vấn đề của đọc, tôi nhất định chỉ nói văn chương Việt Nam nếu thực sự có một vấn đề, thì vấn đề nằm ở đọc. Vấn đề của đọc đó là người ta muốn chấm điểm và muốn làm giám khảo, muốn đánh giá tác phẩm ấy hay hay dở và nó hay ở đâu, như là xem một show ca nhạc, chứ không thành lập được nhãn quan bằng chính văn chương đó, để nhìn được thời của mình.

Điều đó ngày càng rõ hơn trong thời của tôi, một thời mà ân sủng và lợi thế của nó cũng đồng thời là điềm xui của nó nằm ở việc phiêu lưu trong thế giới của sự hiểu biết đã thuận lợi hơn tất cả các thời đại trước. Thời đại của tôi, chúng tôi không thiếu khả năng đọc một quyển sách của bất kỳ ai trong những thứ ngoại ngữ cho phép, có thể đọc tất cả các tác phẩm của các nền văn học xung quanh nếu muốn. Nhưng điều đó lại dẫn đến hai con đường, thứ nhất là chúng ta có thể phiêu lưu được và đón lấy những món quà của hiểu biết trên các tủ sách khắp thế gian. Hoặc thứ hai, cái nhà tù tâm trí của chúng ta ngày một to ra. Và theo kinh nghiệm của các phê bình gia lịch thiệp trên thế giới, thì trường hợp thứ hai dễ hơn cả.

Tôi là người lạc quan, tôi không có vấn đề gì lắm với thời đại của mình, chưa kể tôi rất biết ơn thời đại, và tôi yêu đời bằng một niềm cả tin cũng không kém đứa con chưa đầy một tuổi của tôi. Niềm yêu đời của tôi thường được nâng đỡ bởi chính tinh thần phê phán của tôi với thời của mình, mà tôi vẫn đang tiếp tục phát triển. Và thế là tôi nhận ra các nhà văn trong thời của họ, họ đã trở thành thời của mình bằng cách sống cùng và kháng cự những tàn bạo mà thời đại áp đặt lên họ.

Thật ra quá dễ để nói về thời đại của chúng tôi, như ta đã thấy, lên ngôi của tiêu dùng, của sản xuất đại trà, hay nói như Mario Vargas Llosa: thời đại của speculate (thị kỹ) khi mục đích tối cao của các hành động đều là để giải trí và tôn vinh kỹ thuật. Những âm thanh ồn ã của quảng cáo, và sự tan biến của nhiều giá trị cũ, đã thấy trong một tiểu thuyết của một nhà văn thời chúng tôi: Tôi ngồi đầy chờ cơn bão tới của Nguyễn Hải Nhật Huy. Nhưng ai cũng có thể nói như vậy được, còn giật gân hơn nhà văn, và rất thường xuyên người ta đưa chúng tôi vào thế phải phê phán thời mình sống với đủ những lý do bi quan và nghiêm trọng, để câu view mà thôi. Nếu phải dùng đúng một cụm từ ngắn gọn, với tư cách của một người viết văn, thời của chúng tôi là thời đại không thể nhìn thấy được. Nó khác hẳn các thời trước đây. Ta hãy tưởng tượng thời đại và con người giống như một ông chủ nuôi một con mèo. Trước đây, con mèo đó có thể nhìn thấy người chủ của mình và biết được tổng thể diện mạo, lẫn cảm xúc - chỉ cần con mèo đủ khôn - của anh ta. Nhưng thời của chúng tôi, chúng tôi giống như những con sán bên trong cơ thể của người chủ, chúng tôi không thể biến được diện mạo của kẻ khổng lồ đó và chỉ biết được tình trạng của anh ta bằng chính việc chúng tôi sẽ hấp thụ những gì trong dưỡng chất từ anh ta, tức là bằng chính nỗi đau hay sung sướng của chúng tôi. Xin tha thứ cho tôi vì nói về con sán, tôi chỉ lấy lại ẩn dụ con sán từ mấy nhà văn ở nước ngoài.

Điều này rất khó cảm nhận ở những người tiền bối vốn sinh ra khác thời đại, và chính vì như thế, nó mới lập lên một thế hệ riêng. Tôi sẽ tìm ra vài điểm đã được tiên báo từ các tác phẩm cách đây đã gần bốn chục năm để cùng chia sẻ cho rõ hơn. Kinh nghiệm của tôi lại chính là tôi thường kiếm được sự cộng cảm lại chính ở những người bạn vong niên đáng kính đã khác hẳn thời đại, những nhà văn ấy nằm trong chiêm nghiệm của Lưu Quang Vũ còn chúng tôi nằm trong tiên tri của Nguyễn Huy Thiệp.

Tôi đã nhìn thấy năm 1988 có một khuôn mặt xổ ngay ra từ chương một của một cuốn tiểu thuyết, khuôn mặt gầy guộc đau khổ chưa bao giờ gớm guốc như thế ở quãng thời gian trước đó: lão Khúng trong Phiên Chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. Nhận định này là của Lockhardt người dịch Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh, ông viết vậy trong lời tựa, và tôi cũng thấy vậy. Một cảnh xuyên suốt cuốn sách như sau: người đàn ông nghèo khốn khổ dẫn con bò già gầy guộc của mình đi bán lấy tiền cho đứa con phương xa dựng cơ nghiệp, trong tất cả các tuyệt vọng đời sống đã đè nặng lên ông. Ông không ngừng nhìn thấy mình chỉ là một con thú tiến hoá. Ông dẫn con bò lên một cái dốc, hình ảnh ấy quá ư tôn giáo, quá ư những ngụ ngôn xa xưa, thậm chí làm tôi nghĩ đến sách Job trong Cựu Ước (quyển sách với câu hỏi lớn: Tại sao người công chính lại bất hạnh?). Một chuyển động lớn từ một người với mong muốn viết những thông điệp rõ ràng về các nghịch lý của sống, nay đã tuyên bố về sự bất khả, về một cái gì đó rộng lớn và huyền nhiệm hơn câu chuyện nghịch lý của người đàn ông đã phiêu lưu khắp thế giới không thể sang được bến quê. Nghịch lý của Bến Quê ta có thể hiểu được, đó là một paradox, nhưng nghịch lý của Phiên Chợ Giát đã nằm ở bên kia của lý trí, tức là irony, đó là chỗ mà văn chương đích thực phải lui tới. Nhưng càng đến cuối, ông Khúng càng không phải là một con thú tiến hoá - mà đau khổ hơn: một vị thần tan vỡ. Con người khổ đau lại chính bởi họ thay vì là thú tiến hoá, họ lại là một vị thần tan vỡ. Các nền văn minh hay tưởng tượng về một Hoàng Kim Thời Đại (Il Illo tempore). Thời kỳ ấy thế gian có trật tự và con người kết nối với cái huyền nhiệm, được hưởng ân sủng từ một nền đạo đức có tính tổng thể vững chắc. Càng lao vào đời sống hiện đại, cái nền tảng ấy càng vỡ vụn ra và các đạo đức bị cô lập khỏi nhau. Điều đáng sợ với cái thiện không phải là cái ác, mà là cái thiện bị cô lập khỏi nhau và đi lang thang, như trên nói, và phát điên.

Niềm tin khát khao một bến đỗ, hay nói tàn nhẫn hơn, niềm tin thường đi tìm con mồi của nó. Trở lại với Nguyễn Huy Thiệp, trong Con gái thuỷ thần, là câu chuyện bao trùm hơn cả nhiều thế hệ: kể chuyện phiêu lưu của nhân vật Chương, một anh trai quê đi qua các thế giới, miền quê của anh và xã hội hiện đại đang vào thời với hết tốc lực, cùng những nơi có tính cách chuyển tiếp, không quan trọng, anh đi tìm niềm tin của mình. Niềm tin từ tín ngưỡng Mẹ Cả, phóng vào muôn hình dạng, một Gioanna Đoàn Thị Phương, một cô giáo, và một cô gái hiện đại v.v… Ồ, chúng tôi chính là con người ấy đây. Chúng tôi cũng đi tìm trong văn học, trong khoa học - một thời và cho đến tận bây giờ - vẫn là một thần thánh, vào du lịch, vào marketing, vào khởi nghiệp làm giàu… Chương ra đời chỉ với một đức tin mơ hồ vào truyền thuyết, chúng tôi trong thời của mình, có muôn vàn lời thì thầm. Và những vỡ mộng thì không lớn như lúc Chương cầm phải vàng giả, nhưng lại nhiều vỡ mộng li ti. Chắc hẳn trong dài rộng cuộc đời, ai cũng từng nghe và thất vọng về những lời nói dối trong thời đại của họ sống (tôi nói chung trên thế giới), chúng ta trong thời hiện đại cũng có những lời nói dối của riêng mình. Lời nói dối thời nay rất khó nhận ra, vì không phải chỉ cái thiện, mà cái ác cũng vụn vỡ: nó cũng tan khỏi trật tự tổng thể và cũng đi lang thang, y hệt như cái thiện. Cái ác đã vụn vỡ chính trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp, nó ti tiện và nhỏ lẻ. Tựa như có một thời trong công cuộc chống lại cái ác, chúng ta chỉ đánh với một đến vài con quái vật, giờ đây chúng ta có hàng nghìn tiểu yêu.

Một il illo tempore, một Hoàng Kim Thời Đại mơ hồ của Nguyễn Huy Thiệp lại có thể tìm thấy trong không gian nông thôn. Cần phải đầy thiện chí để phản đối những miêu tả cho là vùng quê thì bình dị, ngược lại, tôi thấy không gian nông thôn - hay nói đúng hơn - làng Việt Nam là nơi chứa đựng đầy đủ những sức sống mãnh liệt, phức tạp, và đến ngày nay không còn có thể hiểu được nữa. Nhưng với riêng tôi, nơi ấy có thể chứa những câu trả lời cho đời mình và cho ngày hôm nay. Có điều, khi các nhân vật đô thị trong Những bài học nông thôn (nhân vật tôi) và Thương nhớ đồng quê (cô bé Quyên), họ phải đối mặt với một cõi siêu hình rộng lớn mà phần nào họ cảm thấy, nhưng phần khác họ không còn hiểu được. Quyên có học thức, du học Mỹ, tự tin, ban đầu cô nhìn nông thôn bằng các con số hành chính kinh tế (sản lượng lúa, giá phân bón, điện…), về sau cô đã đầu hàng cõi ấy bằng sự dứt khoát của mình, quay về thành thị. Ở đây, nông thôn hay đô thị đại diện cho một bên là cõi người Việt đã từng sống và một bên là thế giới mới họ đang hướng về.

Thật hấp dẫn khi thấy trong những năm 1987 1988 và 1989, cũng là những năm của nhiều nhà văn lớn có ảnh hưởng đến một thế hệ mới sau này ở Việt Nam. Lúc đó Krasznahorkai Laszlo giải Nobel 2025 đã viết tập truyện Quan hệ nhân từ và Sầu của kháng cự - những tập truyện dày đặc kiệt tác. Nhân vật có nhiều ảnh hưởng hơn cả với tuổi trẻ Việt Nam - Haruki Murakami in Rừng Na Uy năm 1987 và đang chuẩn bị viết Nhảy, nhảy, nhảy. Thế giới sau những chia cắt vội vàng lao vào một toàn cầu hoá lần thứ hai (bởi đầu thế kỷ XX đã có một pha tương tự), lần này với tốc độ kinh hoàng của cáp quang. Làm sao để sống được trong thế giới đương đại? Các nhà văn Việt Nam cũng nhìn vào điều đó, các nhà văn thế giới cũng nhìn vào điều đó. Câu trả lời của Murakami nhẹ nhàng và dứt khoát hơn: ta có thể sống được, và thậm chí không quá trần tục, dấu vết của cái huyền nhiệm từng che chở con người vẫn còn ở nơi đây, không phải một đền thờ mà là một cái giếng. Nhân vật của Murakami có thể đối mặt với chuyện bất cứ sáng nào thức dậy, đời sống riêng của mình cũng có thể tan vỡ, nhưng đó là lúc ta có thể thấu suốt chính mình và phát hiện ra các cõi khác. Krasznahorkai Laszlo lúc đó cũng bắt đầu chia tay thế giới phương Tây và tìm thấy sự an ủi ở tinh thần Nhật Bản.

Cuối cùng, tôi muốn nói, chính vào thời điểm này, chúng ta có những cự ly tốt, thậm chí là tốt hơn cả ngay lúc đương thời, để đọc lại những quãng quan trọng của văn chương Việt Nam. Đọc lớn hay đọc thầm, thì cũng không phải để bình xét, mà để thấy, từ đó có thể xây dựng thực tại luận riêng cho mình. Tôi không muốn tất cả mọi người đều suy nghĩ như tôi, những bạn văn đều phải thấy cái tôi thấy, không phải như vậy, mà chỉ muốn trình bày rằng văn chương nằm ở chuyển động, không nằm ở cái đã chết trên trang giấy. Những câu hỏi của Nguyễn Huy Thiệp hay Nguyễn Minh Châu vẫn còn nguyên, và việc của nhà văn, rất có thể không phải chỉ là trả lời câu hỏi mà còn mở rộng nó. Đây là lúc, như người ta nói, chuẩn bị cho một thời đại mới của văn học. Một ý kiến nhỏ cuối cùng, tôi tin rằng cần mở rộng đầu tư có hệ thống cho văn học dịch, nhất là những nhịp của nó theo các thời đoạn lịch sử, để có thêm tham khảo trong đối sánh với văn học Việt Nam.

----------------

Bài viết được khai thác từ tham luận Hội thảo “50 năm văn học Việt Nam từ sau 1975: Góc nhìn của những người viết trẻ”.

* Tên bài viết do Văn nghệ điện tử đặt

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.